công nhận việc nuôi con nuôi trên cơ sở xem xét ý chí tự nguyện của các bên đương sự, thẩm tra các điều kiện cần thiết về phía người nhận nuôi và người được nhận làm con nuôi, cũng như mục đích của việc nuôi con nuôi. Để sự kiện nuôi con nuôi phát sinh có hiệu lực thì phải có các điều cần và đủ. Trong đó, việc đáp ứng đầy đủ các điều kiện về chủ thể, điều kiện về ý chí của các bên liên quan chỉ là điều kiện cần, chưa đủ để việc nuôi con nuôi có giá trị pháp lý. Việc nuôi con nuôi chỉ có giá trị pháp lý khi nó được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận theo những trình tự, thủ tục quy định. Sự công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thể hiện qua việc tiến hành đăng kí nuôi con nuôi và ra quyết định công nhận nuôi con nuôi. Quyết định công nhận nuôi con nuôi là cơ sở pháp lí làm phát sinh quan hệ pháp luật cha mẹ và con giữa người nhận nuôi và đứa trẻ được nhận nuôi, phát sinh các quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ nuôi con nuôi. Vì vậy trong quá trình thực hiện việc đăng ký nuôi con nuôi, các điều kiện của việc nuôi con nuôi phải được xem xét một cách đầy đủ và toàn diện. Nếu các bên không có đủ các điều kiện mà pháp luật quy định thì cơ quan đăng ký có quyền từ chối việc đăng ký này.
2.4. Đăng ký việc nuôi con nuôi
Đăng ký nuôi con nuôi là việc kiểm tra sự tuân thủ các điều kiện nuôi con nuôi của các bên chủ thể và là một thủ tục để công nhận việc nuôi con nuôi có giá trị pháp lý. Chỉ khi việc nuôi con nuôi được đăng ký mới làm phát sinh quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi và con nuôi. Khi đó, đứa trẻ nhận nuôi sẽ được hưởng các quyền cơ bản của người con trong gia đình của cha mẹ nuôi, đó là: quyền chăm sóc, nuôi dưỡng, quyền được học hành, quyền sở hữu tài sản, quyền thừa kế tài sản... Việc đăng ký được thực hiện đúng sẽ góp phần giúp cơ quan chức năng quản lý tốt dân số, đảm bảo được quyền, lợi ích chính đáng của các chủ thể trong việc nuôi con nuôi. Chính vì
vậy, đăng ký nuôi con nuôi cũng được coi là một điều kiện quan trọng để việc nuôi con nuôi có giá trị pháp lý.
Việc đăng ký nuôi con nuôi bao gồm: đăng ký việc nuôi con nuôi trong nước và đăng ký việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Theo đó trình tự, thủ tục đăng ký của mỗi loại việc cũng khác nhau.
2.4.1. Đăng ký việc nuôi con nuôi trong nước
* Về thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi trong nước thuộc về UBND xã, phường, thị trấn nơi thường trú của người được nhận làm con nuôi hoặc của người nhận con nuôi. Theo quy định này, người nhận con nuôi có thể nộp hồ sơ xin nhận con nuôi tại UBND cấp xã của một trong hai nơi.
Đối với trường hợp trẻ em bị bỏ rơi chưa được chuyển vào cơ sở nuôi dưỡng và chưa đăng ký hộ khẩu thường trú thì UBND cấp xã nơi lập biên bản xác nhận trẻ em bị bỏ rơi có thẩm đăng ký việc nuôi con nuôi (Khoản 1 Điều 2 Nghị định 19/2011/NĐ-CP). Đối với trường hợp trẻ em đang sống tại cơ sơ nuôi dưỡng thì UBND cấp xã nơi có trụ sở của cơ sở nuôi dưỡng có thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi.
Để tạo thuận lợi cho việc đăng ký nuôi con nuôi, riêng đối với trường hợp cha dượng hoặc mẹ kế nhận con riêng của vợ/chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi hoặc có sự thỏa thuận của người nhận con nuôi với cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của người được nhận làm con nuôi thì việc nuôi con nuôi được đăng ký tại UBND cấp xã nơi thường trú của người nhận con nuôi.
* Thủ tục đăng ký nuôi con nuôi: Người nhận nuôi con nuôi cần chuẩn bị hồ sơ xin nhận con nuôi và hồ sơ của trẻ được giới thiệu làm con nuôi. Hồ sơ của người nhận con nuôi được quy định tại Điều 17 Luật Nuôi con nuôi và quy định chi tiết tại Nghị định 19/2011/NĐ-CP. Hồ sơ bao gồm: Đơn xin nhận con nuôi; Bản sao Hộ chiếu, Giấy chứng minh nhân dân hoặc giấy tờ có
Có thể bạn quan tâm!
- Điều Kiện Đối Với Người Được Nhận Làm Con Nuôi
- Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi năm 2010 - 5
- Sự Thể Hiện Ý Chí Của Người Nhận Nuôi Con Nuôi
- Nuôi Con Nuôi Có Yếu Tố Nước Ngoài Ở Khu Vực Biên Giới
- Thủ Tục Công Nhận Việc Nuôi Con Nuôi Đã Đăng Ký Tại Cơ Quan Có Thẩm Quyền Của Nước Ngoài
- Thực Tiễn Thực Hiện Vấn Đề Đăng Ký Nuôi Con Nuôi Thực Tế
Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.
giá trị thay thế; Phiếu lý lịch tư pháp; Văn bản xác nhận tình trạng hôn nhân; Giấy khám sức khỏe do cơ quan y tế cấp huyện trở lên cấp; văn bản xác nhận hoàn cảnh gia đình, tình trạng chỗ ở, điều kiện kinh tế do Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người nhận con nuôi thường trú cấp. Như vậy so với Điều 28 Nghị định 158/2005/NĐ-CP thì Luật Nuôi con nuôi và Nghị định 19/2011/NĐ-CP quy định về hồ sơ của người nhận con nuôi đầy đủ và chặt chẽ hơn. Người nhận con nuôi phải nộp nhiều loại giấy tờ quan trọng mà trước đây không yêu cầu như: phiếu lý lịch tư pháp do Sở tư pháp cấp; giấy khám sức khỏe; văn bản xác nhận hoàn cảnh gia đình, tình trạng chỗ ở, điều kiện kinh tế. Đặc biệt việc cung cấp phiếu lý lịch tư pháp để chứng minh tư cách đạo đức của người nhận nuôi con nuôi. Trường hợp người nhận con nuôi thuộc diện quy định tại khoản 3 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi thì không cần văn bản xác nhận hoàn cảnh gia đình, tình trạng chỗ ở, điều kiện kinh tế. Việc xác nhận về hoàn cảnh gia đình, tình trạng chỗ ở, điều kiện kinh tế của người nhận con nuôi được thực hiện như sau: Nếu người nhận con nuôi nộp hồ sơ đăng ký việc nuôi con nuôi tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của người được nhận làm con nuôi, thì văn bản về hoàn cảnh gia đình, tình trạng chỗ ở, điều kiện kinh tế của người nhận con nuôi do Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi người đó thường trú xác nhận; Nếu người nhận con nuôi nộp hồ sơ đăng ký việc nuôi con nuôi tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó thường trú, thì công chức tư pháp – hộ tịch xác minh hoàn cảnh gia đình, tình trạng chỗ ở, điều kiện kinh tế của người nhận con nuôi.
Hồ sơ của trẻ được giới thiệu làm con nuôi trong nước được quy định tại Điều 18 Luật Nuôi con nuôi, trong đó có nhiều giấy tờ quan trọng như: Biên bản xác nhận do Ủy ban nhân dân hoặc Công an cấp xã nơi phát hiện trẻ bị bỏ rơi lập đối với trẻ em bị bỏ rơi; Giấy chứng tử của cha đẻ, mẹ đẻ hoặc quyết định của Tòa án tuyên bố cha đẻ, mẹ đẻ của trẻ em là đã chết đối với trẻ
em mồ côi; quyết định của Tòa án tuyên bố cha đẻ, mẹ đẻ của người được giới thiệu làm con nuôi mất tích đối với người được giới thiệu làm con nuôi mà cha đẻ, mẹ đẻ mất tích; quyết định của Tòa án tuyên bố cha đẻ, mẹ đẻ của người được giới thiệu làm con nuôi mất năng lực hành vi dân sự đối với người được giới thiệu làm con nuôi mà cha đẻ, mẹ để mất năng lực hành vi dân sự; Quyết định tiếp nhận đối với trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng. Những giấy tờ này nhằm xác định người có quyền cho trẻ em làm con nuôi và làm rò tình trạng của trẻ em, tránh việc biến trẻ em thành những trẻ bị bỏ rơi, không xác định được nguồn gốc.
Việc lập hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi sống tại gia đình do cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của trẻ em đó chuẩn bị. Đối với những trẻ em sống tại cơ sở nuôi dưỡng việc lập hồ sơ của trẻ do Cơ sở nuôi dưỡng những trẻ em đó thực hiện.
* Trình tự đăng ký việc nuôi con nuôi: Người nhận con nuôi phải nộp hồ sơ của mình và hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi tại UBND cấp xã nơi người được giới thiệu làm con nuôi thường trú hoặc nơi người nhận con nuôi thường trú. Thời hạn giải quyết việc nuôi con nuôi là 30 ngày, kể từ ngày Ủy ban nhân dân cấp xã nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Thời hạn này đã được tăng thêm, so với quy định tại Điều 27 Nghị định 158/2005/NĐ-CP thời hạn này chỉ có tối đa là 10 ngày. Quy định này rất hợp lý vì nếu thời hạn chỉ có 10 ngày sẽ không đủ thời gian để cán bộ tư pháp xã kiểm tra xác minh kỹ càng hồ sơ và lấy ý kiến của những người liên quan, nên rất dễ dẫn đến sai sót trong quá trình đăng ký việc nuôi con nuôi.
Theo Điều 20 Luật Nuôi con nuôi và Điều 8, Điều 9 của Nghị định 19/2011/NĐ-CP quy định trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, UBND cấp xã nơi nhận hồ sơ có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ, tiến hành xong việc lấy ý kiến của: cha mẹ đẻ hoặc giám hộ của người được nhận làm
con nuôi, người nhận nuôi con nuôi và người được cho làm con nuôi nếu con nuôi từ đủ 09 tuổi trở lên. Việc lấy ý kiến do công chức tư pháp – hộ tịch của Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi thường trú của người được nhận làm con nuôi trực tiếp thực hiện và phải được lập thành văn bản và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người được lấy ý kiến. Khi kiểm tra hồ sơ, công chức tư pháp – hộ tịch phải nghiên cứu, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng và hoàn cảnh của những người liên quan. Trường hợp người được nhận làm con nuôi có cha mẹ đẻ, thì công chức tư pháp – hộ tịch kiểm tra việc cha mẹ đẻ có thỏa thuận với cha mẹ nuôi để giữ lại quyền, nghĩa vụ đối với con và cách thức thực hiện quyền, nghĩa vụ đó sau khi đã cho làm con nuôi. Khi lấy ý kiến của những người liên quan theo quy định tại Điều 20 và Điều 21 của Luật Nuôi con nuôi, công chức tư pháp – hộ tịch phải tư vấn để trẻ em tiếp tục được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục phù hợp với điều kiện và khả năng thực tế của gia đình. Việc cho trẻ em làm con nuôi là giải pháp cuối cùng vì lợi ích tốt nhất của trẻ em, nên công chức tư pháp – hộ tịch phải tư vấn đầy đủ cho những người liên quan về mục đích nuôi con nuôi; quyền và nghĩa vụ phát sinh giữa cha mẹ nuôi và con nuôi sau khi đăng ký nuôi con nuôi; về việc cha mẹ đẻ sẽ không còn các quyền, nghĩa vụ đối với con theo quy định tại khoản 4 Điều 24 của Luật Nuôi con nuôi, nếu cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi không có thỏa thuận khác. Sự tư vấn này là rất cần thiết vì có thể những người có liên quan do chưa nhận thức đầy đủ, chưa hiểu rò những vấn đề được tư vấn hoặc bị ảnh hưởng, tác động bởi yếu tố tâm lý, sức khỏe đã đồng ý cho trẻ em làm con nuôi. Vì vậy, khoản 3 Điều 9 Nghị định 19/2011/NĐ-CP quy định trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được lấy ý kiến cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của trẻ muốn thay đổi ý kiến thì thông báo bằng văn bản cho UBND cấp xã nơi đang giải quyết hồ sơ nuôi con nuôi. Hết thời hạn này, nếu cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của trẻ sẽ không có ý kiến gì thì việc đăng ký nuôi con nuôi được tiếp tục tiến hành.
Tuy nhiên, trong trường hợp những người này vì lý do khách quan như ốm đau, đang đi công tác nước ngoài… nên không thể hiện được ý chí của mình trong thời hạn 15 ngày. Sau thời gian 15 ngày họ mới đến để thể hiện ý chí của mình về việc không đồng ý cho trẻ đi làm con nuôi nữa thì sẽ giải quyết như thế nào? Theo quan điểm cá nhân, sự thể hiện ý chí của cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của trẻ được cho làm con nuôi là điều kiện bắt buộc để việc nuôi con nuôi có giá trị pháp lý. Sự thể hiện ý chí này là hoàn toàn tự nguyện và xuyên suốt trong quá trình đăng ký việc nuôi con nuôi. Vì vậy, quy định sự thay đổi ý kiến về việc cho trẻ đi làm con nuôi của cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của trẻ chỉ trong thời hạn 15 ngày là không phù hợp. Việc đăng ký nuôi con nuôi sẽ là trái với sự tự nguyện của cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của trẻ nếu họ không đồng ý cho trẻ làm con nuôi nhưng đã hết thời gian 15 ngày để bày tỏ lại ý kiến của mình. Do đó, Luật nên quy định ở bất kỳ thời điểm nào trong quá trình đăng ký việc nuôi con nuôi nếu cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của trẻ có sự thay đổi ý kiến không đồng ý cho trẻ làm nuôi thì việc đăng ký nuôi con nuôi sẽ bị dừng lại.
Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày có ý kiến đồng ý của những người liên quan nếu xét thấy người nhận con nuôi và người được giới thiệu làm con nuôi có đủ điều kiện pháp luật quy định thì Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức đăng ký nuôi con nuôi (Điều 22 Luật Nuôi con nuôi). Việc đăng ký nuôi con nuôi được tiến hành tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã. Khi đăng ký nuôi con nuôi, cha mẹ nuôi, cha mẹ đẻ, người giám hộ hoặc đại diện cơ sở nuôi dưỡng và người được nhận làm con nuôi phải có mặt. Ủy ban nhân dân cấp xã sẽ trao Giấy chứng nhận nuôi con nuôi cho cha mẹ nuôi, cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ hoặc đại diện cơ sở nuôi dưỡng, tổ chức giao nhận con nuôi và ghi vào sổ hộ tịch. Việc nuôi con nuôi có hiệu lực kể từ ngày cấp giấy chứng nhận nuôi con nuôi.
Trường hợp Ủy ban nhân dân cấp xã từ chối đăng ký thì phải trả lời bằng văn bản cho người nhận con nuôi, cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ hoặc đại diện cơ sở nuôi dưỡng và nêu rò lý do trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày có ý kiến của cha mẹ đẻ hoặc giám hộ, người nhận nuôi và con nuôi (khoản 2 Điều 22 Luật Nuôi con nuôi).
2.4.2. Đăng ký việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài bao gồm 4 loại việc sau: đăng ký nuôi con nuôi tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam; đăng ký việc nuôi con nuôi tại khu vực biên giới; đăng ký nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau tạm trú ở nước ngoài và công nhận việc nuôi con nuôi đã được tiến hành tại nước ngoài. Tương ứng với các trường hợp đó việc đăng ký nuôi con nuôi có các trình tự, nội dung và thẩm quyền khác nhau.
2.4.2.1. Đăng ký nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam
Việc đăng ký nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam bao gồm các trường hợp Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi là trẻ em Việt Nam hoặc công dân Việt Nam thường trú ở Việt Nam nhận trẻ em là người ngoài làm con nuôi và được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
Theo quy định của Luật Nuôi con nuôi và Nghị định 19/2011/NĐ-CP thì trẻ em Việt Nam được cho làm con nuôi người nước ngoài là trẻ em có từ hai nguồn: cơ sở nuôi dưỡng và từ gia đình.
Điều 11 Nghị định 19/2011/NĐ-CP quy định cơ sở nuôi dưỡng được cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài là những cơ sở nuôi dưỡng được thành lập và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam; có đủ điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em theo quy định của pháp luật; có đội ngũ nhân viên đủ
tiêu chuẩn về đạo đức, chuyên môn trong lĩnh vực chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em và am hiểu về lĩnh vực nuôi con nuôi nước ngoài và phải được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ định cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài. Như vậy không phải tất cả các cơ sở nuôi dưỡng đều được phép cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài, mà tùy theo tình hình của mỗi địa phương mà UBND cấp tỉnh, thành phố sẽ chỉ định một hoặc một số cơ sở nuôi dưỡng được phép giới thiệu trẻ em ở cơ sở đó làm con nuôi người nước ngoài.
Thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi có yếu tố nước tại Việt Nam do Sở tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi thường trú của người được giới thiệu làm con nuôi đăng ký (khoản 2 Điều 9 Luật Nuôi con nuôi năm 2010). Tuy nhiên, quyết định công nhận việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Trình tự, thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi nước ngoài tại Việt Nam: Theo Điều 17 Nghị định 19/2011/NĐ-CP thủ tục nộp và tiếp nhận hồ sơ của người nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài có 2 trường hợp:
Đối với trường hợp thông thường, người nhận nuôi con nuôi cần chuẩn bị hồ sơ xin nhận con nuôi theo Điều 31 Luật Nuôi con nuôi. Hồ sơ của trẻ được giới thiệu làm con nuôi quy định tại Điều 32 Luật Nuôi con nuôi. Việc lập hồ sơ của trẻ được giới thiệu làm con nuôi do cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của người được giới thiệu làm con nuôi sống tại gia đình và cơ sở nuôi dưỡng lập hồ sơ của trẻ em được giới thiệu làm con nuôi sống tại cơ sở nuôi dưỡng.
Trẻ em Việt Nam chỉ được giải quyết cho làm con nuôi ở nước ngoài sau khi đã thực hiện mọi biện pháp tìm kiếm gia đình thay thế cho trẻ ở trong nước mà không được. Việc tìm gia đình thay thế cho trẻ được thực hiện theo trình tự quy định tại khoản 2 Điều 15 Luật Nuôi con nuôi. Việc tìm mái ấm được thực hiện ở ba cấp: xã, tỉnh và trung ương. Ở cấp xã, việc tìm gia đình thay thế được thực hiện bằng cách niêm yết tại trụ sở Uỷ ban nhân dân trong