Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi năm 2010 - 5

tương xứng, phù hợp với tuổi có thể làm cha mẹ về mặt sinh học”. Đồng thời, người nhận nuôi phải đạt tới một độ tuổi tối thiểu nhất định thì mới có được kinh nghiệm, hiểu biết, điều kiện kinh tế phù hợp và quan trọng nhất là nhận thức rò về nhu cầu nhận nuôi con nuôi của mình. Mặt khác, việc quy định độ tuổi tối đa của người nhận nuôi cũng có ý nghĩ không nhỏ. Bởi khi tuổi đã càng cao thì khả năng chăm sóc, giáo dục con nuôi sẽ giảm dần, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của con nuôi. Con nuôi sẽ không có được sự chăm sóc tốt nhất, hơn nữa sẽ không phù hợp với tự nhiên khi trẻ ở với các cặp vợ chồng đã quá tuổi sinh nở [19].

Việc quy định độ tuổi tối thiểu của người được nhận nuôi đã được quy định trong pháp luật nước ta thời kỳ Pháp thuộc. Trong Dân luật giản yếu Nam Kỳ quy định điều kiện đối với người nuôi phải quá 25 tuổi không kể là đàn ông hay đàn bà, đã lập gia đình hay chưa. Trong Dân luật Bắc kỳ và Dân luật Trung kỳ thì người người nuôi phải là người đã thành niên tức là trên 21 tuổi (Điều 185 Dân luật Bắc Kỳ) và trên 30 tuổi (Điều 183 Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật). Theo Luật gia đình ngày 2/5/1959 dưới chế độ Ngô Đình Diệm, khi một người đứng nuôi độc thân thì ít nhất phải 25 tuổi. Nếu họ đã có gia đình thì việc nuôi con nuôi phải được cả hai vợ chồng ưng thuận và một trong hai người ít nhất phải 25 tuổi (Điều 117), không đòi hỏi họ phải không có con. Bộ Dân luật 1972 quy định điều kiện độ tuổi còn khắt khe hơn. Theo Bộ Dân luật 1972: “Đàn ông hay đàn bà trên 35 tuổi mới được lập con nuôi và phải hơn con nuôi ít nhất 20 tuổi, trừ khi có sự đặc miễn của nguyên thủ quốc gia” [32, Điều 248]. Nếu hai vợ chồng lập con nuôi, thì bắt buộc họ phải có đủ ba điều kiện: ở với nhau đã 10 năm, không có con và một trong hai người phải thỏa mãn điều kiện về độ tuổi trên 35 tuổi.

Hầu hết pháp luật các nước trên thế giới đều quy định về tuổi của người nhận con nuôi. Chẳng hạn như Hàn Quốc quy định người thành niên có thể

nhận nuôi con nuôi; Trung Quốc quy định người từ 30 tuổi trở lên có thể nhận nuôi con nuôi; Phần Lan quy định người từ 25 tuổi trở lên có thể nhận con nuôi; theo pháp luật Cộng hòa Pháp bất cứ ai trên 28 tuổi đều có thể nhận con nuôi và người nhận trẻ em làm con nuôi phải hơn trẻ em từ 15 tuổi trở lên và nếu trẻ em là con riêng của vợ hoặc chồng thì khoảng cách về độ tuổi có thể cho phép hơn con nuôi từ 10 tuổi… Việc quy định độ tuổi tối thiểu để có thể nhận con nuôi tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau của mỗi nước, vì đến một độ tuổi nào đó con người mới có được nhận thức về trách nhiệm làm cha, làm mẹ và kinh nghiệm tâm lý xã hội, có đủ khả năng tài chính để gánh vác trách nhiệm đó. Ngoài ra, pháp luật các nước còn quy định độ tuổi chênh lệch giữa người nhận nuôi con nuôi và người được làm con nuôi như Pháp quy định người nuôi con nuôi phải nhiều hơn con nuôi 15 tuổi. Pháp luật Trung Quốc quy định về điều kiện đối với người nhận con nuôi có phần khắt khe hơn, đó là người nhận nuôi phải không có con, nếu người đàn ông độc thân muốn nhận một bé gái làm con nuôi thì phải hơn con nuôi ít nhất là 40 tuổi.

Do vậy, Luật nuôi con nuôi của Việt Nam nên có quy định độ tuổi tối thiểu của người nhận nuôi con nuôi kết hợp với quy định về khoảng cách độ tuổi giữa hai bên cho phù hợp hơn với thực tế.

- Người nhận nuôi con nuôi phải “có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở đảm bảo việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi” [30 Điều 14, khoản 1, điểm c]. Điều này có nghĩa là người nhận nuôi con nuôi muốn nhận con nuôi phải chứng minh được mình có đủ điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở ổn định. Đây là một điều kiện có ý nghĩa quan trọng. Người nhận nuôi có sức khỏe thì mới có thể chăm sóc tốt cho đứa trẻ được nhận làm con nuôi. Nếu người nhận nuôi không có sức khỏe, bản thân người nhận nuôi không thể tự chăm sóc cho bản thân mình thì không thể chăm sóc được cho con nuôi. Mặt khác, hầu hết những trẻ đi làm con nuôi của người khác là những trẻ em mồ côi, không nơi

nương tựa, bị tàn tật hoặc là những đứa trẻ có gia đình nhưng gia đình quá nghèo, gặp nhiều khó khăn về kinh tế, bố mẹ đẻ không thể nuôi dưỡng, dạy dỗ con, nên phải dứt ruột cho đứa con mà mình mang nặng đẻ đau làm con nuôi người khác với hy vọng và mong muốn con mình sẽ được sống trong một gia đình ấm no, hạnh phúc, được nuôi dưỡng, giáo dục, chăm sóc tốt hơn. Nếu gia đình nhận nuôi không có điều kiện kinh tế thì cuộc sống của trẻ không được đảm bảo, việc nuôi con nuôi cũng không còn ý nghĩa, mục đích của việc nuôi con nuôi không đạt được.

Trường hợp cha dượng, mẹ kế nhận con riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi hoặc cô, dì, chú, bác, cậu ruột nhận cháu làm con nuôi thì điều kiện về kinh tế, sức khỏe không cần đặt ra. Quy định này đã tạo điều kiện cho trẻ em được sống cùng cha đẻ hoặc mẹ đẻ, hoặc gia đình họ hàng mở rộng, đảm bảo quyền được sống trong gia đình huyết thống của trẻ, điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ trong môi trường gia đình mới. Điều này cũng phù hợp với phong tục tập quán, truyền thống đạo đức của dân tộc, vừa phù hợp với các văn bản pháp lý quốc tế về nuôi con nuôi.

Tuy nhiên, luật không quy định cụ thể thế nào là “có điều kiện kinh tế” nên trong quá trình thực hiện mỗi nơi lại áp dụng một cách khác nhau. Có địa phương chỉ cần đương sự chứng minh mình có việc làm là được. Có địa phương lại yêu cầu đương sự phải có thu nhập ở mức nhất định. Việc xác định chỗ ở như thế nào để bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con nuôi cũng rất khó khăn. Chính vì thế, không dễ dàng để xác minh điều kiện nuôi con nuôi vì người dân thường không trình bày đúng với điều kiện hoàn cảnh thực tế của mình. Do Luật không quy định rò nên khó khăn trong việc áp dụng, không có sự thống nhất giữa các địa phương. Mặt khác, tại Khoản 3 Điều 14 Luật quy định, trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, dì, chú, bác, cậu

ruột nhận cháu làm con nuôi thì không áp dụng quy định về khoảng cách độ tuổi và điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở theo quy định tại điểm b và c tại Khoản 1 điều này. Nhưng Luật lại không quy định rò vợ của chú, bác, cậu ruột hoặc chồng của cô, dì có được áp dụng quy định này không. Vì khi cháu được cô, dì, chú, bác, cậu ruột nhận làm con nuôi có thể có hai khả năng: người đó là người độc thân nhưng có thể họ là người đã có vợ hoặc có chồng. Trong khi đó Luật Nuôi con nuôi chỉ công nhận việc nuôi con nuôi chung của cả hai vợ chồng mà không cho phép một bên vợ hoặc chồng nhận con nuôi riêng. Do đó, trong trường hợp này việc nhận cháu ruột làm con nuôi phải được sự đồng ý của người chồng hoặc người vợ của người nhận nuôi và đứa trẻ sẽ trở thành con chung của cả hai vợ chồng cô, dì, chú, bác, cậu ruột đó. Vì vậy, người vợ của chú, bác, cậu ruột hoặc người chồng của cô, dì ruột của trẻ vẫn phải đáp ứng các điều kiện của người nhận nuôi con nuôi. Trong trường hợp này người vợ của chú, bác, cậu ruột hoặc người chồng của cô, dì ruột của trẻ sẽ áp dụng quy định về điều kiện của người nhận nuôi theo khoản 1 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi hay được áp dụng theo khoản 3 Điều 14 như cô, dì, chú, bác, cậu ruột của người cháu đó. Luật Nuôi con nuôi nên có quy định cụ thể hơn trong trường hợp này.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.

Ngoài ra, Luật Nuôi con nuôi cũng không cấm những người nhận con nuôi mắc các bệnh hiểm nghèo có nguy cơ lây nhiễm cao sang người khác như: nhiễm HIV/ADIS, các bệnh viêm gan, lao… được nhận nuôi con nuôi. Xét về lợi ích lâu dài của trẻ em được nhận nuôi, pháp luật cần quy định những người mắc các bệnh trên không được nhận nuôi con nuôi để đảm bảo sức khỏe của trẻ em, vì thể chất của trẻ còn non nớt nên không có khả năng để tự bảo vệ mình, có nhiều nguy cơ bị nhiễm bệnh hơn. Việc cấm những người này được nhận con nuôi là cần thiết để bảo đảm sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, bảo đảm trẻ em được cho làm con nuôi được sống trong điều kiện tốt nhất, được phát triển một cách toàn diện nhất.

- Người nhận nuôi con nuôi “phải có tư cách đạo đức tốt” (điểm d khoản 1 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi). Đây cũng là một điều kiện có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nuôi con nuôi. Bởi tư cách đạo đức của bố mẹ nuôi có ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành nhân cách của trẻ, đặc biệt là khi trẻ còn nhỏ tuổi, khả năng nhận thức còn chưa ổn định. Việc xác định điều kiện về tư cách đạo đức để tránh những trường hợp cha mẹ nuôi có những hành vi ngược đãi, phân biệt đối xử với con nuôi, xâm phạm, làm tổn thương đến người con nuôi. Người nhận nuôi có tư cách đạo đức tốt sẽ đảm bảo cho con nuôi có môi trường an toàn, lành mạnh để trẻ được phát triển tốt về thể chất, trí tuệ và nhân cách.

Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi năm 2010 - 5

Để đảm bảo tư cách của người nhận nuôi, Khoản 2 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi đã quy định những người không được nhận nuôi con nuôi là:

- Đang bị hạn chế một số quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên;

- Người đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh;

- Người đang chấp hành hình phạt tù;

- Người chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thanh niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em.

Đây là quy định kế thừa từ Luật HN & GĐ năm 2000, những người trên đã có hành vi với những mức độ khác nhau xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm của người khác trong đó có trẻ em, đang bị hạn chế một số quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên hoặc đang phải chấp hành hình phạt tù. Họ thường có lối sống buông thả, nhận thức lệch lạc về giá trị đạo đức dẫn đến có những hành vi vi phạm đạo đức hoặc nghiện các

chất kích thích như thuốc lắc, ma túy… gây hủy hoại sức khỏe, trí tuệ con người nên đang bị xử lý hành chính tại các cơ sở giáo dưỡng, cơ sở chữa bệnh. Khi một đứa trẻ chưa có khả năng nhận thức ổn định sống với những người cha mẹ nuôi đó sẽ dễ bị ảnh hưởng bởi lối sống thiếu lành mạnh, do đó đứa trẻ sau này lớn lên có nguy cơ phạm tội cao hơn. Vì vậy, xét về tư cách đạo đức những người này không đủ điều kiện để nhận nuôi con nuôi.

Điều 13 Luật Nuôi con nuôi cũng quy định rò cấm ông bà nhận cháu làm con nuôi, hoặc anh chị em ruột nhận nhau làm con nuôi để tránh sự đảo lộn ngôi thứ, thứ bậc trong gia đình. Việc ông bà nhận cháu làm con nuôi thì người cháu lại trở thành “con”, ông bà trở thành “bố mẹ” hoặc anh chị em ruột với nhau lại trở thành “cha mẹ và con”. Cần phân biệt rò việc nuôi con nuôi với việc nuôi dưỡng. Việc nuôi con nuôi phải làm phát sinh quan hệ cha mẹ và con, còn việc nuôi dưỡng chỉ là nghĩa vụ giữa các thành viên trong gia đình với nhau. Trường hợp cha mẹ bị chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc cháu hoặc anh, chị có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc em – đó là trách nhiệm nuôi dưỡng giữa các thành viên trong gia đình mà không cần phải xác lập quan hệ nuôi con nuôi mới ràng buộc trách nhiệm của các bên. Việc quy định này nhằm ngăn chặn việc nuôi con nuôi vì các mục đích khác không phù hợp với mục đích xác lập quan hệ cha mẹ và con dựa trên sự chăm sóc nuôi dưỡng trẻ em. Ví dụ việc anh chị xác lập quan hệ nuôi con nuôi với em chỉ để nhằm mục đích thừa kế tài sản, hoặc lợi dụng danh nghĩa cha mẹ nuôi để quản lý, định đoạt tài sản của người được nhận nuôi hoặc nhằm mục đích bảo lãnh cho trẻ đi nước ngoài. Tuy nhiên, trong thực tế có trường hợp người nhận nuôi và con nuôi có quan hệ huyết thống trực hệ chẳng hạn người cha hoặc mẹ có con đẻ ngoài giá thú rồi sau đó nhận đứa con đó làm con nuôi để hợp pháp hóa quan hệ cha mẹ và con. Việc một người nhận con

đẻ ngoài giá thú làm con nuôi có thể do nhiều nguyên nhân, nhưng điều đó xâm phạm đến quyền trẻ em, quyền được biết về nguồn gốc của mình. Do vậy, đối với trường hợp khi phát hiện ra con nuôi chính là con đẻ ngoài giá thú của vợ/chồng thì nên giải quyết như thế nào? Theo quan điểm cá nhân, luật nên quy định việc cấm nhận con đẻ ngoài giá thú của vợ hoặc chồng làm con nuôi để ngăn chặn hiện tượng này.

Các điều kiện đối với người nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài: Trước khi có Luật Nuôi con nuôi thì các điều kiện nuôi con nuôi trong nước được quy định trong Luật HN & GĐ năm 2000 và các văn bản hướng dẫn thi hành, còn các điều kiện nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài chủ yếu quy định trong Nghị định số 68/2002/NĐ-CP và Nghị định số 69/2006/NĐ-CP và các điều kiện này là khác nhau đối với cả người được nhận nuôi và người nhận con nuôi. Hiện nay, về cơ bản, điều kiện của việc nuôi con nuôi trong nước và việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài không có sự phân biệt. Điều kiện của người nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài phân biệt thành hai trường hợp (Điều 29 Luật Nuôi con nuôi): đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận người Việt Nam làm con nuôi phải có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật nước nơi người đó thường trú và quy định tại Điều 14 Luật Nuôi con nuôi; đối với công dân Việt Nam nhận người nước ngoài làm con nuôi phải có đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 14 của Luật Nuôi con nuôi và pháp luật của nước nơi người được nhận làm con nuôi thường trú. Như vậy, Luật Nuôi con nuôi đã áp dụng hệ thuộc luật nơi cư trú của người nhận nuôi là nơi pháp luật có hiệu lực đối với việc nuôi con nuôi. Ví dụ: một người có quốc tịch Pháp nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi, nhưng người đó thường trú ở Đức thì việc xác định các điều kiện của người nhận nuôi được áp dụng theo pháp luật Đức. Việc áp dụng pháp luật nơi thường trú của người nước ngoài xin nhận con nuôi là

hoàn toàn phù hợp, bởi nước nơi cha mẹ nuôi thường trú chính là nơi con nuôi sinh sống. Pháp luật của nước nơi cha mẹ nuôi thường trú điều chỉnh sẽ đảm bảo được quyền lợi của trẻ được nhận nuôi trong việc theo dòi, giám sát việc nuôi con nuôi. Mặt khác, việc áp dụng pháp luật nơi thường trú của người nhận nuôi trong Luật Nuôi con nuôi đã giải quyết tình trạng mâu thuẫn giữa các quy định trước đây về vấn đề này.

Luật HN & GĐ năm 2000 quy định người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam phải đáp ứng các điều kiện của người nhận nuôi con nuôi theo quy định tại Điều 69 Luật HN & GĐ và pháp luật của nước mà người đó là công dân (Khoản 1 Điều 105 Luật HN & GĐ). Tức là dựa trên quy định của pháp luật nơi người đó mang quốc tịch. Tuy nhiên, tại khoản 1 Điều 37 Nghị định 68/2002/NĐ-CP thì việc xác định điều kiện của người xin nhận con nuôi lại dựa trên quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật nơi người đó thường trú. Quy định tại khoản 1 Điều 29 Luật Nuôi con nuôi cũng hoàn toàn phù hợp với quy định áp dụng pháp luật nơi thường trú của cha mẹ nuôi quy định tại Điều 2 Công ước Lahay 1993 và các hiệp định song phương Việt Nam đã ký kết với các nước.

Việc một trẻ em được cho làm con nuôi người nước ngoài có ảnh hưởng sâu sắc làm thay đổi cơ bản số phận của đứa trẻ. Mặc dù còn có quan niệm cho rằng nuôi con nuôi nước ngoài sẽ tạo cho con nuôi một cuộc sống vật chất đầy đủ hơn. Tuy nhiên, với một môi trường hoàn toàn mới khác biệt về ngôn ngữ, văn hóa trẻ sẽ phải cần sự hòa nhập tốt hơn. Nếu bố mẹ nuôi không thực sự quan tâm, chăm sóc và hướng dẫn trẻ thích nghi với môi trường mới thì trẻ dễ có cảm giác cô lập, tự ti về bản thân. Điều này ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển sức khỏe, trí tuệ, nhân cách của trẻ. Vì vậy, các điều kiện của cha mẹ nuôi người nước ngoài cần chặt chẽ, phù hợp với pháp luật Việt Nam và cả pháp luật nơi người đó thường trú để đảm bảo cho

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 27/06/2022