Tổng Quan Các Nghiên Cứu Trước Và Đề Xuất Lý Thuyết Nghiên Cứu Của Tác Giả


ty mẹ sở hữu ngân hàng (BHCs) có cổ phiếu niêm yết ở Mỹ trong khoảng thời gian từ năm 1986 đến năm 1999 và khảo sát mối liên hệ giữa quản trị công ty của ngân hàng và hiệu quả hoạt động. Họ nhận thấy rằng quy mô HĐQT có mối liên hệ cùng chiều (+) với hiệu quả hoạt động.

Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của García-Herrero và cộng sự (2009) sử dụng dữ liệu bảng của 87 ngân hàng Trung Quốc từ năm 1997 đến năm 2004 cho rằng các ngân hàng có cơ cấu sở hữu ít tập trung vào nhóm cổ đông có xu hướng đạt được lợi nhuận cao hơn. Fu và Heffernan (2009) điều tra mối quan hệ giữa cấu trúc thị trường và hiệu quả hoạt động trong hệ thống ngân hàng ở Trung Quốc từ năm 1985 đến năm 2002 và nhận thấy rằng so với hệ thống ngân hàng quốc doanh thì các ngân hàng cổ phần có hiệu quả và khả năng sinh lời cao hơn. Jia (2009) cung cấp bằng chứng cho thấy việc cho vay của các ngân hàng thương mại quốc doanh có rủi ro cao hơn, nhưng qua thời gian thì lại thận trọng hơn, dựa trên một mẫu 14 ngân hàng Trung Quốc từ năm 1985 đến năm 2004. Lin và Zhang (2009) xác nhận rằng các ngân hàng quốc doanh là những ngân hàng hoạt động kém hiệu quả nhất (ngoại trừ các ngân hàng chính sách) nếu xét trên những thước đo đơn giản như lợi nhuận, hiệu suất và chất lượng tài sản trong một nhóm các ngân hàng Trung Quốc được khảo sát từ năm 1997 đến năm 2004. Berger và cộng sự (2009) sử dụng mẫu nghiên cứu gồm 38 ngân hàng thương mại ở Trung Quốc trong khoảng thời gian từ năm 1994 đến năm 2003 cho rằng việc ngân hàng có cổ đông nước ngoài và quy mô nhỏ có mối liên hệ với hiệu quả hoạt động của ngân hàng cao hơn. Berger và cộng sự (2010) bằng việc sử dụng một mẫu nghiên cứu gồm 88 ngân hàng từ năm 1996 đến 2006 cho rằng các ngân hàng Trung Quốc có cổ đông nước ngoài khi thực hiện quá trình đa dạng hóa sẽ phải chịu ít chi phí hơn, mất ít lợi nhuận hơn. Một ngoại lệ là Rowe và cộng sự (2011) bằng việc sử dụng một mẫu nghiên cứu gồm 41 ngân hàng đã nghiên cứu sự tác động của bốn biến đặc tính Hội đồng quản trị là quy mô HĐQT, phần trăm cổ phần nắm giữ bởi các thành viên Hội đồng quản trị, phần trăm thành viên HĐQT thường trực và thành viên HĐQT độc lập lên hiệu quả hoạt động của các ngân hàng Trung Quốc. Họ nhận thấy rằng tỷ lệ phần trăm các thành viên


HĐQT thường trực trong HĐQT có tác động ngược chiều (-) lên hiệu quả hoạt động của ngân hàng trong khi tỷ lệ phần trăm cổ phần nắm giữ bởi HĐQT có tác động cùng chiều (+) lên hiệu quả hoạt động của ngân hàng.

Tại Việt Nam, có một số nghiên cứu về vấn đề này như nghiên cứu “Quản trị công ty và hiệu quả hoạt động DN: Minh chứng thực nghiệm từ các công ty niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh (HSX)” của Vò Hồng Đức và Phan Bùi Gia Thủy (2013) cho thấy, quyền kiêm nhiệm có tác động tương quan cùng chiều (+) có ý nghĩa thống kê lên hiệu quả hoạt động. Ngược lại, quy mô HĐQT có tác động tương quan ngược chiều (-) có ý nghĩa thống kê lên giá trị doanh nghiệp. Hay nghiên cứu của Lê Quang Cảnh, Lương Thái Bảo và Nguyễn Vũ Gia Hùng (2015) thực hiện nghiên cứu quản trị công ty với hiệu quả hoạt động các DN tư nhân lớn ở Việt Nam với mẫu là 500 DN tư nhân lớn trong năm 2013 cho thấy, quản trị công ty tốt sẽ mang lại hiệu quả hoạt động tốt hơn cho doanh nghiệp; sự độc lập của HĐQT không ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động.

2.3 Tổng quan các nghiên cứu trước và đề xuất lý thuyết nghiên cứu của tác giả

Trọng tâm chính của bài nghiên cứu khảo sát một cách toàn diện các đặc tính của HĐQT (quy mô, thành phần và chức năng của HĐQT) mà có thể ảnh hưởng đến việc thúc đẩy các thành viên Hội đồng quản trị để tư vấn và giám sát Ban Giám đốc một cách hiệu quả.

Trong phần này, nghiên cứu sẽ trình bày các nghiên cứu trước có liên quan đến đặc tính HĐQT bao gồm: quy mô HĐQT, thành viên HĐQT độc lập, thành viên HĐQT có kết nối chính trị, thành viên HĐQT lớn tuổi, việc chủ tịch HĐQT kiêm nhiệm chức danh TGĐ của doanh nghiệp khác, các cuộc họp HĐQT, thành viên HĐQT bận rộn. Chi tiết được trình bày cụ thể dưới đây:

2.3.1 Quy mô Hội đồng Quản trị

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.


Jensen (1993) cho rằng HĐQT của công ty lớn thường ít hiệu quả hơn do các vấn đề về hợp tác, kiểm soát và sự linh hoạt trong việc ra quyết định, hoặc gây ra sự kiểm soát quá mức đối với các Tổng Giám đốc (CEOs). Yermack (1996) và Eisenberg và cộng sự (1998) bổ sung thêm lập luận trên cho rằng các công ty có quy mô Hội đồng quản trị nhỏ có kết quả kinh doanh vượt trội hơn. Tuy nhiên, những nhà nghiên cứu khác lại lập luận rằng các Hội đồng quản trị lớn hơn có thể cải thiện hiệu quả hoạt động của công ty bằng việc tạo điều kiện giám sát quản lý và đem lại nguồn nhân lực dồi dào hơn để hỗ trợ và tư vấn cho Ban Giám đốc. Dalton và cộng sự (1999), Coles và cộng sự (2008) cho rằng quy mô Hội đồng quản trị lớn tác động cùng chiều (+) lên hiệu quả hoạt động của công ty, đặc biệt đối với các công ty cần tư vấn nhiều hơn, chẳng hạn các công ty phức tạp hoạt động trong nhiều phân khúc thị trường. Hay luận điểm của Klein (1998) khi cho rằng quy mô HĐQT lớn sẽ hỗ trợ và tư vấn quản lý doanh nghiệp hiệu quả hơn. Raheja (2005) lập luận rằng “quy mô và thành phần tối ưu của Hội đồng quản trị phụ thuộc vào chức năng của các thành viên HĐQT và đặc điểm của công ty”. Do vậy, tác giả đưa ra giả thuyết nghiên cứu là:

Các đặc tính của Hội đồng quản trị và hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại Việt Nam - 3

H1: Quy mô HĐQT có mối quan hệ ngược chiều (-) với hiệu quả hoạt động của ngân hàng.

2.3.2 Thành phần của Hội đồng Quản trị

Sự độc lập của các thành viên trong HĐQT thực tế là một chủ đề trung tâm trong quản trị. Các nghiên cứu về quản trị công ty không cung cấp bằng chứng thuyết phục về vai trò của thành viên HĐQT độc lập. Một số tài liệu nghiên cứu lập luận rằng sự hiện diện của các thành viên độc lập trong Hội đồng quản trị có khuynh hướng giảm bớt xung đột lợi ích và hiệu quả hơn trong việc giảm vấn đề đại diện. Rosenstein và Wyatt (1990) cho rằng giá cổ phiếu phản ứng cùng chiều (+) với việc bổ nhiệm các thành viên HĐQT độc lập. Klein (2002) lập luận rằng chất lượng các khoản thu nhập gia tăng với tỷ trọng thành viên HĐQT độc lập. Nguyen và Nielsen (2010) cho rằng giá cổ phiếu giảm xuống sau những cái chết bất ngờ của


thành viên HĐQT độc lập. Một xu hướng nghiên cứu khác cho rằng khi các thành viên HĐQT độc lập gia tăng chất lượng kiểm soát, họ có thể sẽ thiếu hiểu biết đầy đủ về đặc điểm cụ thể của công ty nên sẽ dẫn đến ra quyết định không tối ưu (như Adams và Mehran, 2003, Raheja, 2005, Harris và Raviv, 2008). Hermalin và Weisbach (2003), Coles và cộng sự (2008) không tìm thấy tác động đáng kể nào về mặt thống kê của số lượng/ tỷ lệ phần trăm thành viên HĐQT bên ngoài lên hiệu quả hoạt động. Agrawal và Knoeber (1996) chỉ ra rằng sự hiện diện của thành viên HĐQT độc lập làm giảm giá trị công ty. Do vậy, tác giả đưa ra giả thuyết nghiên cứu là:

H2: Thành viên HĐQT độc lập có mối quan hệ ngược chiều (-) với hiệu quả hoạt động của ngân hàng.

Ngày càng nhiều nghiên cứu xem xét vai trò của sự kết nối chính trị trong một nền kinh tế quá độ và tìm ra kết quả về tác động đáng kể của nó lên giá trị công ty. Firth và cộng sự (2009) mở rộng nghiên cứu đối với ngành ngân hàng ở Trung Quốc và tìm thấy rằng sự kết nối chính trị ảnh hưởng đến quyết định cho vay của các ngân hàng đối với khu vực tư nhân. Nhưng lại có rất ít nghiên cứu điều tra về sự kết nối chính trị của các thành viên HĐQT, trừ một ngoại lệ đáng chú ý là công trình của Boubakri và cộng sự (2008). Bằng việc sử dụng mẫu nghiên cứu gồm 245 công ty phi ngân hàng trên 41 quốc gia, nghiên cứu cho thấy rằng các công ty mới cổ phần hóa gần đây mà vẫn duy trì sự kết nối chính trị thông qua Hội đồng quản trị hoạt động kém hơn các đối tác không kết nối chính trị của họ. Một loạt các cải cách đã được giới thiệu với mục tiêu chuyển đổi ngành ngân hàng Trung Quốc từ một hệ thống được chính phủ kiểm soát hoàn toàn thành một hệ thống thương mại theo định hướng thị trường. Tuy nhiên, các thành viên HĐQT có kết nối chính trị có thể giảm hiệu quả của việc cải cách. Các thành viên HĐQT có kết nối chính trị cho phép chính phủ can thiệp nhiều hơn vào việc ra quyết định của ngân hàng và có các cơ chế khuyến khích ngân hàng này thực hiện các mục tiêu của chính phủ. Các ngân hàng với thành viên HĐQT có kết nối chính trị có nhiều khả năng sẽ theo đuổi mục


tiêu chính trị và xã hội bằng chi phí ngân hàng, điều này sẽ gây bất lợi cho hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Do vậy, tác giả đưa ra giả thuyết nghiên cứu là:

H3: Thành viên HĐQT có kết nối chính trị có mối quan hệ ngược chiều (-) với hiệu quả hoạt động của ngân hàng.

Thành viên HĐQT là người nước ngoài có thể mang lại công nghệ mới và kỹ thuật quản lý hiện đại, tăng cường quản trị công ty, phát huy tốt hơn việc giám sát và sau đó nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty. Bằng việc sử dụng mẫu nghiên cứu các công ty có trụ sở ở Na-Uy hay Thụy Điển, Oxelheim và Randoy (2003) cho rằng công ty sẽ có giá trị cao hơn đáng kể nếu có thành viên HĐQT là người nước ngoài (Anh, Mỹ), Berger và cộng sự (2009) cho rằng một cơ chế mà qua đó thiểu số công ty có sở hữu nước ngoài có thể làm tăng hiệu quả của các ngân hàng Trung Quốc, cử đại diện tham giao vào HĐQT và “tận dụng” vị trí để giám sát và cải thiện công tác quản trị của ngân hàng. Vì vậy, sự hiện diện của thành viên HĐQT là người nước ngoài có thể cải thiện hiệu quả hoạt động và chất lượng tài sản các ngân hàng ở Trung Quốc. Do vậy, tác giả đưa ra giả thuyết nghiên cứu là:

H4: Thành viên HĐQT là người nước ngoài có mối quan hệ cùng chiều (+) với hiệu quả hoạt động của ngân hàng.

Thành viên HĐQT lớn tuổi có thể thiếu động lực, năng lượng và kiến thức cần thiết để chủ động kiểm soát và tư vấn cho Ban Giám đốc. Core và cộng sự (1999) đã nghiên cứu và ra kết quả rằng thành viên HĐQT là người bên ngoài mà lớn hơn 69 tuổi đồng nghĩa với hệ thống quản trị công ty yếu hơn và sẽ chi trả cho Ban Giám đốc còn nhiều hơn. Với tốc độ cải cách và chuyển đổi nhanh chóng của ngành ngân hàng ở Việt Nam, tác giả dự đoán có mối liên hệ tương tự giữa thành viên HĐQT là người lớn tuổi và hiệu quả hoạt động của ngân hàng (hiệu quả kém và chi phí nhiều). Do vậy, tác giả đưa ra giả thuyết nghiên cứu là:

H5: Thành viên HĐQT lớn tuổi có mối quan hệ ngược chiều (-) với hiệu quả hoạt động của ngân hàng.


Tỷ lệ thành viên HĐQT là nữ hay sự đa dạng giới tính trong HĐQT thời gian gần đây đã trở thành một chủ đề trong cải cách quản trị toàn thế giới. Adams và Ferreira (2009) đã nỗ lực đầu tiên để xem xét vai trò của thành viên HĐQT là nữ. Họ cho rằng thành viên HĐQT là nữ có thành tích tham dự tốt hơn các thành viên HĐQT là nam và có nhiều khả năng tham dự vào các Ủy ban giám sát. Tuy nhiên, bằng chứng về cách mà sự đa dạng giới tính tác động vào hiệu quả hoạt động của công ty là khác nhau. Sự đa dạng giới tính cải thiện hiệu quả hoạt động ở các công ty mà hệ thống quản trị yếu kém, được đo bằng khả năng để chống lại việc mua bán, sáp nhập nhưng giảm giá trị của các cổ đông ở các công ty có hệ thống quản trị mạnh. Sự tác động của các thành viên HĐQT là nữ vào hiệu quả hoạt động của ngân hàng trở thành một câu hỏi mở. Trong bài nghiên cứu của mình, tác giả đưa ra giả thuyết nghiên cứu là:

H6: Thành viên HĐQT là nữ có mối quan hệ cùng chiều (+) với hiệu quả hoạt động của ngân hàng.

2.3.3 Chức năng của Hội đồng Quản trị:

Jensen (1993) lập luận rằng việc Chủ tịch HĐQT kiêm nhiệm Tổng giám đốc hay bổ nhiệm kép của Chủ tịch HĐQT và Tổng giám đốc, tập trung quá nhiều quyền lực vào một cá nhân có thể là nguyên nhân của việc ra quyết định không đem lại lợi ích tốt nhất đối với các cổ đông thiểu số. Yermack (1996) bổ sung thêm cho rằng việc Chủ tịch HĐQT kiêm nhiệm Tổng giám đốc giảm đi sự độc lập của Hội đồng quản trị. Trong ngành ngân hàng, Pi và Timme (1993) cho rằng hiệu quả chi phí và lợi nhuận trên tổng tài sản thấp hơn khi Tổng giám đốc đóng vai trò như Chủ tịch HĐQT trong ngành ngân hàng Mỹ. Một quan điểm mâu thuẫn cho rằng việc phân chia vai trò của Chủ tịch HĐQT và Tổng giám đốc có thể tạo ra những vấn đề trong việc ra quyết định nếu hai vị trí quyền lực này không đồng thuận về chiến lược. Brickley và cộng sự (1997) tìm thấy ít bằng chứng cho rằng việc kết hợp hay phân chia chức danh ảnh hưởng đến việc quản trị doanh nghiệp. Ngược lại, Goyal và Park (2002) cho rằng ảnh hưởng của việc Tổng giám đốc từ nhiệm lên hiệu quả


hoạt động sẽ thấp hơn khi các chức danh nói trên được kết hợp. Tương tự như vậy, Adams và cộng sự (2005) tìm thấy bằng chứng cho rằng các Tổng giám đốc cũng nắm giữ chức vụ Chủ tịch HĐQT dường như có ảnh hưởng lớn hơn đến việc ra quyết định của công ty. Do vậy, tác giả đưa ra giả thuyết nghiên cứu là:

H7: Việc chủ tịch HĐQT kiêm nhiệm chức danh TGĐ có mối quan hệ ngược chiều (-) với hiệu quả hoạt động của ngân hàng.

Các cuộc họp Hội đồng quản trị thường xuyên có thể là tín hiệu của một Hội đồng quản trị chủ động. Các cuộc họp càng thường xuyên, việc kiểm soát đối với Ban giám đốc càng tăng, vai trò tư vấn càng thích hợp hơn, điều này có thể cải thiện hiệu quả hoạt động của công ty. Hơn nữa, sự phức tạp của hoạt động kinh doanh ngân hàng đòi hỏi vai trò tích cực hơn của HĐQT. Ngoài ra, tần suất họp HĐQT có thể tăng lên trong thời gian khủng hoảng tài chính hoặc trong những thời điểm quyết định gây tranh cãi. Vafeas (1999) cho rằng tần suất các cuộc họp HĐQT có ý nghĩa tiêu cực (-) đến hiệu quả hoạt động, điều này có thể là kết quả của cuộc họp HĐQT thường xuyên hơn để giải quyết hiệu quả hoạt động kém. Trong bài nghiên cứu của mình, tác giả đưa ra giả thuyết nghiên cứu là:

H8: Các cuộc họp HĐQT có mối quan hệ ngược chiều (-) với hiệu quả hoạt động của ngân hàng.

Các thành viên HĐQT bận rộn sẽ kiểm soát hoạt động ít tích cực hơn so với những thành viên tham gia vào ít Hội đồng quản trị hơn. Core và cộng sự (1999) cho rằng số lượng các thành viên HĐQT bận rộn có tương quan với việc quản trị công ty kém hiệu quả hơn và trả lương cho Tổng giám đốc cao hơn. Fich và Shivadasani (2004) cho rằng đa số các thành viên HĐQT bên ngoài mà tham gia vào ba hoặc nhiều HĐQT của các công ty khác nhau, các công ty đó sẽ có kết quả hoạt động kém thể hiện bằng tỷ lệ Giá cổ phiếu/ Giá sổ sách được thị trường đánh giá thấp và lợi nhuận gộp thấp hơn. Ahn và cộng sự (2010) cho rằng các thành viên HĐQT tham gia vào nhiều HĐQT khác nhau không quan tâm đến công ty của mình


làm cho hiệu quả hoạt động của công ty đó kém đi, giá trị cổ phiếu thấp và bị mua lại. Jirapon và cộng sự (2009) báo cáo rằng các thành viên HĐQT nắm giữ nhiều chức vụ giám đốc bên ngoài, tham gia vào các Ủy ban hội đồng quản trị ít hơn sẽ ảnh hưởng đến khả năng của thành viên HĐQT đó để thực hiện nhiệm vụ giám sát một cách hiệu quả. Hoạt động kinh doanh phức tạp và không rò ràng của các ngân hàng có thể đòi hỏi nhiều thời gian và sự quan tâm hơn từ các thành viên HĐQT để đảm bảo vai trò kiểm soát và tư vấn một cách đầy đủ, hiệu quả hơn. Vì vậy, tác giả kỳ vọng các thành viên HĐQT bận rộn sẽ có tác động tiêu cực (-) vào hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Do vậy, tác giả đưa ra giả thuyết nghiên cứu là:

H9: Thành viên HĐQT bận rộn có mối quan hệ ngược chiều (-) với hiệu quả hoạt động của ngân hàng.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 27/06/2022