Đánh giá quản lý chất thải nguy hại công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Dương và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý - 2


DANH MỤC CÁC BẢNG


Bảng 1.1. Một số công nghệ xử lý CTNH phổ biến ở Việt Nam 21

Bảng 3.1. Thực trạng biên chế cán bộ quản lý môi trường của tỉnh 34

Bảng 3.2. Thống kê tổng số mã CTNH của một số loại CTNH 37

Bảng 3.3. Thống kê vi phạm về thu gom CTNH 38

Bảng 3.4. Thống kê công suất xử lý CTNH tại tỉnh Bình Dương 40

Bảng 3.5. Thống kê đề xuất sửa đổi bổ sung Văn bản pháp luật 70


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 140 trang tài liệu này.

DANH MỤC HÌNH

Hình 1.1. CTNH công nghiệp 8

Đánh giá quản lý chất thải nguy hại công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Dương và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý - 2

Hình 1.2. CTNH phát sinh từ nông nghiệp 9

Hình 1.3. CTNH phát sinh từ y tế 10

Hình 1.4. Môi trường đất bị phơi nhiễm CTNH công nghiệp 12

Hình 1.5. Một khu vực môi trường không khí bị ô nhiễm 12

Hình 1.6. Thối chân do đèn tiết kiệm điện 14

Hình 1.7. Hệ thống QLCTNH theo vòng đời 21

Hình 1.8. Biểu đồ dự báo phát sinh CTNH [16] 25

Hình 2.1. Bản đồ hành chính tỉnh Bình Dương [16] 26

Hình 3.1. Biểu đồ cơ cấu kinh tế của tỉnh Bình Dương 31

Hình 3.2. Hệ thống quản lý CTNH 33

Hình 3.3. Xe vận chuyển CTNH, Công ty TNHH Thương mại xử lý môi trường Thái Thành 39

Hình 3.4. Biểu đồ công suất xử lý CTNH tại Bình Dương 39

Hình 3.5 Lò đốt của Công ty TNHH MTV cấp thoát nước và MT Bình Dương

........................................................................................................................................41

Hình 3.6. Xử lý bóng đèn thải tại Công ty TNHH Phát triển Bền vững An Điền

........................................................................................................................................43

Hình 3.7. Tái chế dầu nhớt thải tại Công ty TNHH Sản xuất thương mại dịch vụ môi trường Việt Xanh 44

Hình 3.8. Hệ thống xử lý CTNH lỏng của Công ty TNHH Một thành viên cấp thoát nước và Môi trường Bình Dương 46

Hình 3.9. Hệ thống hoá rắn CTNH, Công ty TNHH MTVcấp thoát nước và Môi trường Bình Dương 47

Hình 3.10. Hệ thống xúc rửa bao bì thải tại Công ty TNHH Thương mại - Dịch vụ xử lý Môi trường Việt Khải 48

Hình 3.11. Hệ thống tẩy rửa tại Công ty TNHH sản xuất thương mại dịch vụ49 Hình 3.12. Xử lý linh kiện điện tử tại Công ty TNHH Một thành viên cấp thoát nước và MT Bình Dương 50

Hình 3.13. Hầm chôn lấp CTNH 51

Hình 3.14. Hệ thống xử lý acquy, Công ty TNHH sản xuất thương mại dịch vụ Môi trường Việt Xanh 52

Hình 3.15. Biểu đồ vi phạm về quản lý thông tin CTNH 55

Hình 3.16. Quy hoạch các khu liên hợp xử lý và trạm trung chuyển chất thải đến năm 2030 [20] 60

Hình 3.17. Đề xuất hoàn thiện cơ cấu tổ chức QLCTNH tại Bình Dương 80


MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài

Quản lý chất thải nguy hại (CTNH) là vấn đề đang khá bức xúc trong công tác bảo vệ môi trường tại Việt Nam hiện nay. Cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá mạnh mẽ của nước ta, lượng chất thải cũng liên tục gia tăng, tạo sức ép rất lớn đối với công tác bảo vệ môi trường. Sự phát sinh CTNH ở Việt Nam rất đa dạng về nguồn cũng như chủng loại trong khi công tác phân loại tại nguồn còn kém càng dẫn đến khó khăn cho công tác quản lý và xử lý.

Thuật ngữ chất thải nguy hại (CTNH) được pháp quy hóa chính thức ở nước ta từ khi Nghị định 155/1999/NĐ-CP chính thức được ban hành năm 1999. Thuật ngữ này dần trở nên quen thuộc sau khi một loạt các văn bản hướng dẫn và triển khai được ban hành trong các năm tiếp theo, với các mốc quan trọng đánh dấu sự phát triển và trưởng thành là năm 2006 với Thông tư số 12/2006/TT-BTNMT hướng dẫn điều kiện hành nghề và thủ tục lập hồ sơ, đăng ký, cấp phép hành nghề, mã số quản lý CTNH và Quyết định 23/2006/QĐ-BTNMT ban hành Danh mục CTNH kèm theo. Cùng với đó là một hệ thống các văn bản liên quan như QCVN 02:2008/BTNMT ban hành năm 2008 sửa đổi thành QCVN 02:2013/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải lò đốt chất thải rắn y tế; QCVN 07: 2009/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về ngưỡng CTNH; QCVN 19: 2009/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công nghiệp đối với bụi và các chất vô cơ; QCVN 24: 2009/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp; QCVN 30: 2010/BTNMT ban hành năm 2010 và sửa đổi thành QCVN 30:2012/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải lò đốt chất thải công nghiệp... Chính từ sự phát triển của các văn bản hướng dẫn và sự nỗ lực triển khai trong toàn ngành tài nguyên nên chỉ trong vòng chính thức tám năm, công tác quản lý CTNH đã đạt được những kết quả ban đầu rất đáng ghi nhận trên toàn quốc [1,2,3].

Những năm gần đây, với sự ra đời của Thông tư số 12/2011/TT-BTNMT ngày 14 tháng 4 năm 2011 quy định về quản lý CTNH được triển khai áp dụng rộng


rãi trên khắp cả nước, song hiện tại vẫn chưa có một nghiên cứu nào khảo sát, đánh giá tình hình thực tế về công tác quản lý CTNH đã thực hiện của các doanh nghiệp do Tổng cục Môi trường cấp phép hoạt động quản lý CTNH cũng như tình hình quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước về CTNH tại các tỉnh thành phố khi triển khai thực hiện Thông tư này. Do đó việc đi thực tế tại địa phương, nghiên cứu thực tế tình hình thực hiện Thông tư số 12/2011/TT-BTNMT cũng như xác định, đánh giá năng lực, tình hình quản lý CTNH của các Sở tài nguyên và môi trường trong thời gian qua làm tiền đề tăng cường công tác quản lý CTNH trong thời gian tới là hết sức cần thiết. Bình Dương là một tỉnh nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, với tốc độ phát triển công nghiệp hóa nằm trong top đầu của cả nước, do đó mô hình quản lý, những bài học kinh nghiệm và những đòi hỏi, thách thức trong công tác quản lý CTNH tại tỉnh Bình Dương là vô cùng quan trọng, và có thể nói là mô hình điểm, phù hợp với mô hình quản lý tại các tỉnh thành trong tương lai [4].

Chính vì vậy, việc chọn đề tài luận văn thạc sĩ: “Đánh giá quản lý CTNH trên địa bàn tỉnh Bình Dương và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý” vừa có ý nghĩa lý luận vừa có ý nghĩa thực tiễn. Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả tập trung phân tích, đánh giá về công tác quản lý chất thải nguy hại tại Bình Dương. Nội dung luận văn sẽ cung cấp thông tin, số liệu về cơ sở vật chất, hoạt động quản lý nhà nước cũng như nhân lực phục vụ công tác quản lý CTNH của thành phố cũng như có các đánh giá về tình hình quản lý CTNH của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Dương và đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý.

2. Mục tiêu, đối tượng, phạm vi nghiên cứu

2.1. Mục tiêu nghiên cứu

- Đánh giá được hiện trạng CTNH tại các KCN, các cơ sở công nghiệp tại tỉnh Bình Dương, những hạn chế, bất cập về công tác quản lý CTNH hiện nay tại tỉnh Bình Dương và ở Việt Nam;


- Đề xuất được những giải pháp để khắc phục những hạn chế, bất cập, nâng cao hiệu quả quản lý CTNH công nghiệp của tỉnh Bình Dương nói riêng và quản lý CTNH nói chung tại Việt Nam.

2.2. Đối tượng nghiên cứu

CTNH của hoạt động công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Dương.

2.3. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi địa lý:

Phạm vi không gian của nghiên cứu được xác định là toàn bộ các KCN, các cơ sở công nghiệp phân tán trên địa bàn tỉnh Bình Dương.

- Phạm vi vấn đề:

Luận văn đi sâu phân tích, đánh giá công tác quản lý CTNH trên địa bàn tỉnh Bình Dương; Bên cạnh đó đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý.

3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài

3.1. Ý nghĩa khoa học

Luận văn bước đầu phân tích, đánh giá công tác quản lý CTNH trên địa bàn tỉnh Bình Dương, tạo tiền đề cho những nghiên cứu về sau liên quan tới quản lý CTNH không chỉ ở phạm vi tỉnh Bình Dương, mà còn có thể nhân rộng ra các tỉnh công nghiệp khác trên cả nước, để giải quyết những vấn đề bất cập về công tác quản lý CTNH trong bối cảnh hoạt động công nghiệp diễn ra sôi động hiện nay.

3.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn góp phần đưa ra những giải pháp và kiến nghị phù hợp với tính chất và mục tiêu phát triển của tỉnh Bình Dương, góp phần quản lý môi trường ở các khu công nghiệp hướng tới phát triển bền vững.

4. Kết cấu của Luận văn

Luận văn được trình bày trong 85 trang đánh máy khổ A4, được viết trong 3 chương sau, ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị:

- Chương 1. Tổng quan về Chất thải nguy hại;

- Chương 2. Địa điểm, thời gian, phương pháp nghiên cứu;

- Chương 3. Kết quả nghiên cứu.


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ CHẤT THẢI NGUY HẠI

1.1. Một số quan niệm và khái niệm cơ bản

1.1.1. Khái niệm CTNH, CTNH của hoạt động công nghiệp

1.1.1.1. Khái niệm về CTNH

Thuật ngữ CTNH lần đầu tiên xuất hiện vào thập niên 70, sau một thời gian nghiên cứu phát triển, tùy thuộc vào sự phát triển khoa học kỹ thuật và xã hội cũng như quan điểm của mỗi nước mà hiện nay trên thế giới có nhiều cách định nghĩa khác nhau về CTNH trong luật và các văn bản dưới luật về môi trường.

Philippin: CTNH là những chất có độc tính, ăn mòn, gây kích thích, họat tính, có thể cháy, nổ mà gây nguy hiểm cho con người, và động vật.

Canada: CTNH là những chất mà do bản chất và tính chất của chúng có khả năng gây nguy hại đến sức khỏe con người và môi trường; những chất này yêucầu các kỹ thuật xử lý đặc biệt để lọai bỏ hoặc giảm đặc tính nguy hại của nó.

Trong Chương trình môi trường của Liên Hợp Quốc (12/1985): ngoài chất thải phóng xạ và chất thải y tế, CTNH là chất thải (dạng rắn, lỏng, bán rắn - semisolid, và các bình chứa khí) mà do họat tính hóa học, độc tính, nổ, ăn mòn hoặc các đặc tính khác, gây nguy hại hay có khả năng gây nguy hại đến sức khỏe con người hoặc môi trường bởi chính bản thân chúng hay khi được cho tiếp xúc với chất thải khác.

Mỹ: Được đề cập trong luật RCRA (the Resource Conservation and Recovery Act-1976), chất thải (dạng rắn, dạng lỏng, bán rắn-semisolid, và các bình khí) có thể được coi là CTNH khi nằm trong danh mục chất thải, CTNH (gồm 4 danh sách) có một trong 4 đặc tính (khi phân tích): cháy-nổ, ăn mòn, phản ứng và độc tính được chủ nguồn thải (hay nhà sản xuất) công bố là CTNH. Bên cạnh đó, CTNH còn gồm các chất gây độc tính đối với con người ở liều lượng nhỏ. Đối với các chất chưa có chứng minh của nghiên cứu dịch tễ trên con người, các thí nghiệm trên động vật cũng có thể được dùng để ước đoán tác dụng độc tính của chúng lên con người.

Việt Nam: Tiếp cận khái niệm CTNH từ khi tham gia Công ước quốc tế BASEL 1989 (sau đây gọi tắt là Công ước BASEL) về kiểm soát vận chuyển qua biên giới các CTNH và việc tiêu hủy chúng, thì CTNH được cho là các chất thải thuộc


một trong những loại ghi trong phụ bản I của Công ước BASEL, trừ khi các chất thải này không có 1 tính chất gì ghi trong phụ bản III của Công ước BASEL.Nếu các phế thải nêu trên ít nhất một trong các thuộc tính được nêu trong danh sách các đặc tính nguy hiểm của chất thải như: vật liệu dễ nổ, dễ cháy, ăn mòn, gây dịch bệnh, có độc tính,…).

Trong Luật Bảo vệ môi trường năm 1993, lần đầu tiên CTNH được luật hóa tại Điều 23 “Tổ chức, cá nhân sản xuất, vận chuyển, buôn bán, sử dụng, cất giữ, huỷ bỏ các chất độc hại, chất dễ gây cháy, nổ, phải tuân theo quy định về an toàn cho người, sinh vật, không gây suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường. Chính phủ quy định danh mục các chất độc hại, chất dễ gây cháy, nổ” [5].

Trên cơ sở đó, ngày 16 tháng 7 năm 1999 Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 155/1999/QĐ-TTg về việc ban hành Quy chế QLCTNH; tại Khoản 2 Điều 3 đã lần đầu tiên đưa ra khái niệm hết sức cụ thể:“CTNH là chất thải có chứa các chất hoặc hợp chất có một trong các đặc tính gây nguy hại trực tiếp (dễ cháy, dễ nổ, làm ngộ độc, dễ ăn mòn, dễ lây nhiễm và các đặc tính gây nguy hại khác), hoặc tương tác với các chất khác gây nguy hại tới môi trường và sức khoẻ con người. Danh mục các CTNH được ghi trong Phụ lục 1 kèm theo Quy chế này. Danh mục này do cơ quan quản lý nhà nước về BVMT cấp trung ương quy định”.

Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, khái niệm này tiếp tục được luật hóa tại Khoản 11, Điều 3: “CTNH là chất thải chứa yếu tố độc hại, phóng xạ, dễ cháy, dễ nổ, dễ ăn mòn, dễ lây nhiễm, gây ngộ độc hoặc đặc tính nguy hại khác” và khái niệm này đang được sử dụng rộng rãi trong QLCTNH hiện nay [6].

Hiện nay, chúng ta mới chỉ coi CTNH ở thể rắn và thể lỏng là CTNH cần phải quản lý còn thể khí, hơi chưa được coi là CTNH, dù dạng chất thải này trong thực tế đôi khi cực kỳ nguy hại cho sức khỏe và môi trường sinh thải. Trong danh mục CTNH hiện nay, CTNH được phân thành hai nhóm:

- Nhóm một sao “*”: Là nhóm chỉ được khẳng định là CTNH khi được phân định (có kết quả phân tích) và có ít nhất 01 chất nguy hại thành phần vượt ngưỡng QCVN 07:2008/BTNMT về ngưỡng CTNH. Khi một CTNH nhóm “*” nếu không

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 17/05/2022