Các Văn Bản Pháp Luật Có Liên Quan Trực Tiếp Đến Lđte

trình độ tay nghề còn thấp, thiếu sự kiên trì, dẻo dai và dễ bị tác động bởi môi trường khách quan, đặc biệt những tác động xấu sẽ ảnh hưởng không tốt đến phát triển nhân cách.

Bộ luật Lao động kế thừa, tổng hợp và phát huy các văn bản pháp luật trước dây, vừa có những quy định mới đối với lao động chưa thành niên như nghiêm cấm việc lạm dụng sức lao động của người chưa thành niên vào những công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm… nhằm bảo vệ và tạo điều kiện cho các em phát triển về thể lực, trí lực, học tập và nâng cao trình độ văn hóa, hiểu biết về nghề nghiệp và nhân cách, cũng như ý thức kỷ luật lao động. Thời giờ làm việc của lao động chưa thành niên tối đa không quá 7 giờ một ngày, và chỉ phải thêm giờ, làm việc ban đêm trong một số nghề, công việc mà Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định (Điều 122). Ngoài ra Bộ luật Lao động còn quy định trong Điều 121: “Người sử dụng lao động chỉ được sử dụng lao động chưa thành niên vào làm những công việc phù hợp với sức khỏe để bảo đảm sự phát triển thể lực, trí lực, nhân cách và có trách nhiệm quan tâm chăm sóc người lao động chưa thành niên về các mặt lao động, tiền lương, sức khỏe, học tập trong quá trình lao động”.

Các văn bản hướng dẫn luật có Thông tư số 09/TT-LB ngày 13/4/1995 của Liên Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Tài Y tế quy định điều kiện lao động có hại và các công việc cấm sử dụng lao động chưa thành niên để bảo vệ sự phát triển về thể lực, trí lực, nhân cách và đảm bảo an toàn lao động cho người chưa thành niên. Những công việc cấm sử dụng lao động chưa thành niên bao gồm 81 nhóm công việc, những điều kiện lao động có hại đối với lao động chưa thành niên bao gồm 13 nhóm. Thanh tra Nhà nước về an toàn lao động và Thanh tra Nhà nước về vệ sinh lao động tăng cường thanh tra các cơ sở sử dụng lao động chưa thành niên để phát hiện và xử lý các vi phạm theo quy định của pháp luật. Các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức và cá nhân phải thường xuyên rà soát lại các công việc của lao động chưa thành niên và không được để các em làm việc trong các điều kiện lao động và các công việc độc hại đã liệt kê trong Thông tư. Người sử dụng lao động phải lập sổ theo dõi riêng, ghi đầy đủ họ tên, ngày tháng năm sinh, công việc đang

làm và phải kiểm tra sức khỏe khi tuyển dụng cũng như tiến hành kiểm tra sức khỏe định kỳ cho các em.

Bên cạnh đó, Nhà nước còn ban hành hàng loạt văn bản hướng dẫn Bộ luật Lao động có liên quan đến LĐTE khác như: Nghị định số 195/CP ngày 31/12/1994 của Chính phủ có những điều quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; Nghị định số 06/CP ngày 20/01/1995 của Chính phủ có những điều quy định về an toàn vệ sinh lao động; Thông tư số 21/1999/TT-LĐTBXH ngày 11/9/1999 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định danh mục nghề, công việc và các điều kiện được nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc; Nghị định số 114/2002/NĐ- CP ngày 31/12/2002 của Chính phủ quy định về tiền lương, tiền công; Nghị định số 44/2003/NĐ-CP ngày 09/5/2003 của Chính phủ có những điều quy định về hợp đồng lao động; Nghị định số 39/2003/NĐ-CP ngày 18/4/2003 của Chính phủ có những điều quy định về việc làm; Nghị định số 07/2000/NĐ-CP ngày 09/3/2000 của Chính phủ về chính sách cứu trợ xã hội. Nghị định quy định một số chính sách và chế độ cứu trợ xã hội nhằm hỗ trợ, giúp đỡ về vật chất, tinh thần cho người già cô đơn, trẻ mồ côi, người tàn tật nặng, người gặp rủi ro do thiên tai và những lý do bất khả kháng khác mà bản thân họ và người thân của họ không thể tự khắc phục được; Chỉ thị số 06/1998/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 23/01/1998 về việc tăng cường công tác bảo vệ trẻ em, ngăn ngừa và giải quyết tình trạng trẻ em lang thang, trẻ em bị lạm dụng sức lao động; Chỉ thị số 766/TTg ngày 19/7/1997 của Thủ tướng Chính phủ về phân công trách nhiệm thực hiện các biện pháp ngăn chặn việc đưa trái phép phụ nữ và trẻ em ra nước ngoài; Quyết định số 134/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 31/5/1999 phê duyệt Chương trình hành động bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt giai đoạn 1999-2002; Chỉ thị số 34/1999/CT-TTg ngày 27/12/1999 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy nhanh việc thực hiện các mục tiêu đến năm 2000 về trẻ em, tổng kết Chương trình Hành động quốc gia vì trẻ em 1991- 2000 về trẻ em, và xây dựng Chương trình Hành động quốc gia vì trẻ em 2001- 2010; Chỉ thị số 03/2000/CT-TTg ngày 24/01/2000 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, vui chơi, giải trí cho trẻ em; Thông tư số

01/1998/TT-BVCSTE ngày 07/3/1998 của Ủy ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam hướng dẫn Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em các cấp thực hiện Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ số 06-TTg ngày 23/01/1998 về việc tăng cường công tác bảo vệ trẻ em, ngăn ngừa và giải quyết tình trạng trẻ em lang thang, trẻ em bị lạm dụng sức lao động; Kế hoạch công tác công an ngày 05/6/1998 số 538/1998/BNV (C11) của Bộ Công an thực hiện Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ số 06-TTg ngày 23/01/1998 về việc tăng cường công tác bảo vệ trẻ em, ngăn ngừa và giải quyết tình trạng trẻ em lang thang, trẻ em bị lạm dụng sức lao động; Kế hoạch phối hợp hành động liên ngành số 220 ngày 15/9/1999 của Ủy ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Công an triển khai Chương trình hành động bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn giai đoạn 1999-2002; Quyết định số 190/1999/QĐ-LĐTBXH ngày 03/3/1999 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành tạm thời danh mục nghề, công việc nặng nhọc, độc hại nguy hiểm và đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm.

Tất cả các văn bản pháp luật trên đã tạo nên một hành lang pháp lý bảo vệ lao động chưa thành niên và LĐTE trong quá trình lao động. Tuy nhiên, xuất phát từ tình hình thực tế hiện nay của vấn đề LĐTE và trên thế giới, một khiếm khuyết của hệ thống luật pháp đó là chưa bao trùm được hết các đối tượng là trẻ em đang tham gia lao động. Việc xác định một khung pháp lý đối với người sử dụng lao động hay những lao động đi ở hay tự bản thân trẻ em kiếm sống hay lao động trong gia đình của chính các em (đặc biệt là trong lĩnh vực nông thôn) thì Nhà nước vẫn chưa có một biện pháp hợp lý để can thiệp vào các đối tượng này. Vấn đề LĐTE chưa được đặt nghiên cứu đầy đủ cho nên chưa có một khái niệm thống nhất về LĐTE, chưa xác định rõ phạm vi của đối tượng là trẻ em lao động và một phân loại rõ ràng về LĐTE và như vậy cách hiểu về vấn đề LĐTE, lao động vị thành niên, trẻ em làm việc, trẻ em lang thang… vẫn còn có những lẫn lộn. Bên cạnh đó, xuất phát từ tính đa dạng của các công việc mà trẻ em làm, nước ta còn thiếu một cơ chế kiểm soát và xử phạt kịp thời, do vậy luật pháp chưa thật sự là một hàng rào pháp lý có hiệu quả.

LĐTE và trẻ em làm việc là những đứa trẻ mà trước tiên các em phải được sống trong một gia đình, nếu gia đình các em quá nghèo, nếu các em bị mồ côi, gia đình tan vỡ thì họ hàng, đoàn thể, tổ chức xã hội và cuối cùng là ngành Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ là những chỗ dựa của các em, các em phải được ăn no, mặc ấm, được đi học, được vui chơi và được lớn lên để trở thành con người có sức khỏe, có phẩm chất đạo đức tốt đẹp, góp phần làm cho đất nước giàu mạnh, phát triển và văn minh. Hiện nay, các chính sách hiện hành có liên quan đến vấn đề LĐTE thể hiện ở các lĩnh vực chủ yếu là các chính sách trợ cấp nuôi dưỡng, chính sách giáo dục, văn hóa; chính sách khám chữa bệnh và chính sách về dạy nghề, việc làm; các chính sách này mới chỉ tập trung vào đối tượng là trẻ em đang ở trong tình trạng mồ côi không nơi nương tựa, lang thang, tàn tật… chứ chưa có chính sách hỗ trợ trực tiếp đối với trẻ em đang tham gia lao động.

Các hoạt động cộng đồng, hay các hình thức tổ chức chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (thông qua các mô hình chăm sóc hay tư vấn cho các em) được ăn, ở, được học văn hóa, học nghề ở nước ta rất đa dạng và được sự giúp đỡ rất nhiều của các tổ chức phi Chính phủ của quốc tế, tuy nhiên những hoạt động này chưa được tập trung vào đối tượng là LĐTE.

Công tác chăm sóc trẻ em là trách nhiệm của mọi ngành, mọi cấp và trong các chương trình hành động của các ngành chức năng đều coi đối tượng trẻ em là một trong những mục tiêu cần phải thực hiện, như chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình giải quyết việc lam, chương trình dân số và kế hoạch hóa, chương trình phát triển y tế, giáo dục… Do vậy, vẫn còn thiếu một cơ chế chính sách lồng ghép các chương trình này lấy mục tiêu là LĐTE để nó sẽ là một trong những giải pháp quan trọng trong chiến lược phòng ngừa ngăn chặn việc trẻ em tham gia lao động.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.


2.2.2.2. Các văn bản pháp luật có liên quan trực tiếp đến LĐTE

Các công ước quốc tế về lao động trẻ em và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam - 9

Thực tế cho thấy, hầu hết trẻ em ở nước ta tham gia lao động từ nhỏ để giúp đỡ bố mẹ làm các công việc vặt trong nhà hay tham gia lao động để góp thêm thu nhập cho gia đình, các hoạt động lao động mà trẻ em đang làm hầu hết vì mục đích mưu sinh cho bản thân và gia đình các em: luật pháp quốc gia ngăn cấm hẳn các em làm việc thì nhiều khi lại là tước đi nguồn sống của các em. Thực tế, pháp luật nước ta không cấm trẻ em tham gia lao động để kiếm sống, một mặt nhằm khuyến khích những hoạt động lao động phù hợp với lứa tuổi và không ảnh hưởng đến việc học hành của các em, mặt khác bảo vệ trẻ em đang tham gia lao động đồng thời nghiêm cấm các hành vi lợi dụng, lạm dụng trẻ em về mặt kinh tế.

Xuất phát từ quan điểm của Đảng ta về công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em nói chung, về bảo vệ trẻ em khỏi nguy cơ phải tham gia lao động sớm, lao động nặng nhọc, lao động trong điều kiện độc hại, nguy hiểm nói riêng; trên cơ sở nhận thức đầy đủ về sự nguy hại của vấn đề LĐTE, về những yếu tố là nguyên nhân phát sinh tình trạng LĐTE; đồng thời có sự tham khảo kinh nghiệm của các tổ chức quốc tế, đặc biệt là ILO; các nhà hoạch định chính sách nước ta đã xây dựng đồng bộ hệ thống chính sách, pháp luật nhằm ngăn ngừa và từng bước tiến tới xoá bỏ tình trạng LĐTE, bảo vệ các em khỏi sự bóc lột về kinh tế và khỏi bất kỳ công việc gì có thể gây nguy hiểm hoặc ảnh hưởng đến việc học hành của trẻ em, hoặc có hại đối với sức khỏe hay sự phát triển về thể chất, trí tuệ, tinh thần, đạo đức hay xã hội của trẻ em, đảm bảo cho các em được phát triển hài hoà, toàn diện về thể chất, trí tuệ và tinh thần.

Các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước liên quan trực tiếp đến vấn đề LĐTE gồm có: Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, Bộ luật lao động năm 1994 (sửa đổi bổ sung năm 2002, 2006, 2007), Luật Bình đẳng giới năm 2006.

a. Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em


Quán triệt quan điểm của Đảng, trên cơ sở những nguyên tắc đã được ghi nhận trong Hiến pháp về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, ngày 14/11/1979, Ủy ban thường vụ Quốc hội nước ta đã ban hành Pháp lệnh về bảo vệ, chăm sóc và

giáo dục trẻ em. Pháp lệnh ra đời đã khẳng định mối quan tâm của Đảng, của nhà nước đối với sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em.

Sau hơn mười năm thi hành Pháp lệnh, để phù hợp với sự phát triển của kinh tế xã hội của đất nước và của cộng đồng quốc tế, ngày 12/8/1991, Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 9 đã thông qua Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (thay thế Pháp lệnh năm 1979). Điều này càng chứng tỏ rằng: sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em ngày càng được xã hội đặc biệt quan tâm.

Qua gần mười tám năm thi hành, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1991, với sự nỗ lực của các cấp, các ngành, sự nỗ lực của các tổ chức, cá nhân và sự quan tâm ủng hộ của các tổ chức quốc tế, công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em ở nước ta đã có những chuyển biến rõ rệt cả trong nhận thức và trong tổ chức thực hiện, nhiều mục tiêu dành cho trẻ em đã đạt được, các quyền cơ bản của các em đã thực sự được đảm bảo. Tuy nhiên, trong xu thế toàn cầu hóa, trong đó có vấn đề về nhân quyền, cộng đồng quốc tế đã cam kết cùng nhau thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ, trong đó có mục tiêu vì trẻ em, đặc biệt là vấn đề xóa bỏ LĐTE, hành động tức thời nhằm loại bỏ những hình thức lao động tồi tệ nhất (Công ước 182 và Khuyến nghị 190) và kêu gọi toàn nhân loại chung tay, bảo đảm cho các em có tương lai tốt đẹp.

Kế thừa và phát huy những thành tựu đã đạt được, để phù hợp với luật pháp quốc tế về quyền trẻ em, ngày 15/6/2004, Quốc hội nước ta đã thông qua Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thay thế Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1991, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 đã quy định những vấn đề sau về LĐTE:

Về độ tuổi: trẻ em là công dân Việt nam dưới 16 tuổi (Điều 1).


Những nguyên tắc về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em: Không phân biệt đối xử với trẻ em (Điều 4); Trong mọi hoạt động của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân có liên quan đến trẻ em thì lợi ích của trẻ em phải được quan tâm hàng đầu (Điều 5); trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là của gia đình, nhà

trường, Nhà nước, xã hội và công dân (Điều 5); Các quyền của trẻ em phải được tôn trọng và thực hiện. Mọi hành vi vi phạm quyền của trẻ em, làm tổn hại đến sự phát triển bình thường của trẻ em đều bị nghiêm trị theo quy định của pháp luật (Điều 6);

Các hành vi bị nghiêm cấm: Trong 10 nhóm hành vi bị nghiêm cấm (Điều 7), có ba nhóm hành vi liên quan đến LĐTE và những công việc nặng nhọc, điều kiện lao động độc hại, nguy hiểm, những công việc ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân cách của các em: Dụ dỗ, lừa dối, ép buộc trẻ em mua, bán, vận chuyển, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma tuý; lôi kéo trẻ em đánh bạc; bán, cho trẻ em sử dụng rượu, bia, thuốc lá, chất kích thích khác có hại cho sức khoẻ; Dụ dỗ, lừa dối, dẫn dắt, chứa chấp, ép buộc trẻ em hoạt động mại dâm; xâm hại tình dục trẻ em; Lạm dụng LĐTE, sử dụng trẻ em làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với chất độc hại, làm những công việc khác trái với quy định của pháp luật về lao động;

Như vậy, vấn đề xóa bỏ LĐTE và hành động tức thời loại bỏ những công việc tồi tệ nhất theo các Công ước của ILO đã được nội luật hóa. Đây là cơ sở, là căn cứ cho việc xóa bỏ LĐTE và trước mắt là loại bỏ những công việc tồi tệ nhất mà các em có nguy cơ phải thực hiện.

b. Bộ luật lao động


Bộ luật lao động nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được ban hành lần đầu năm 1994, sửa đổi năm 2002, 2006, 2007. Trong Bộ luật Lao động dành riêng một mục trong Chương XI quy định riêng về Lao động chưa thành niên. Về nguyên tắc, Bộ luật Lao động nghiêm cấm việc lạm dụng sức lao động của người chưa thành niên (Điều 119).

Về độ tuổi lao động: Người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi (Điều 119). Tuy nhiên, không phải bất cứ công việc gì cũng được sử dụng lao động là người chưa thành niên mà " Người sử dụng lao động chỉ được sử dụng người lao động chưa thành niên vào những công việc phù hợp với sức khỏe để bảo đảm sự phát triển thể lực, trí lực, nhân cách và có trách nhiệm quan tâm chăm sóc người lao động chưa thành niên về các mặt lao động, tiền lương, sức khỏe, học tập

trong quá trình lao động. Cấm sử dụng người lao động chưa thành niên làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại hoặc chỗ làm việc, công việc ảnh hưởng xấu tới nhân cách của họ theo Danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành." (Điều 121). Đối với trẻ em dưới 15 tuổi, Bộ luật quy định: Cấm nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc. Tuy nhiên, đối với một số nghề và công việc (do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định) thì có thể được nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc, học nghề, tập nghề. Việc nhận và sử dụng những trẻ em này phải có sự đồng ý và theo dõi của cha mẹ hoặc người đỡ đầu (Điều 120).

Về thời giờ làm việc: Thời giờ làm việc của người lao động chưa thành niên không được quá bảy giờ một ngày hoặc 42 giờ một tuần; Người sử dụng lao động chỉ được sử dụng người lao động chưa thành niên làm thêm giờ, làm việc ban đêm trong một số nghề và công việc do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định (Điều 122).

Về Danh mục các điều kiện có hại và các công việc cấm sử dụng lao động chưa thành niên: Liên Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế đã ban hành Thông tư liên tịch số 09/TT-LB ngày 13/9/1995. Theo Thông tư số 09, có 13 điều kiện lao động có hại, cấm sử dụng lao động chưa thành niên; 81 nhóm công việc cấm sử dụng lao động chưa thành niên.

Về Danh mục nghề, công việc và các điều kiện được nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 21/1999/TT - BLĐTBXH ngày 11/9/1999. Theo đó, có 04 nhóm nghề, công việc được nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc; 08 nhóm điều kiện để được nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc.

Ngoài ra, nhằm hạn chế những ảnh xấu đến sự phát triển toàn diện về thể lực, trí tuệ và nhân cách của người lao động dưới 18 tuổi, Liên Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế đã ban hành Thông tư liên tịch số 21/2004/TTLT - BLĐTBXH - BYT ngày 09/12/2004 hướng dẫn, quy định danh mục chỗ làm việc, công việc không được sử dụng lao động dưới 18 tuổi trong các cơ sở kinh doanh

Xem tất cả 113 trang.

Ngày đăng: 03/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí