Các Kiến Nghị Nhằm Hoàn Thiện Pháp Luật Thanh Toán Bằng Thư Tín Dụng Tại Việt Nam.

ngân hàng. Hơn nữa, nếu có mỗi liên kết chặt chẽ này, rất nhiều những rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ sẽ được hạn chế, đặc biệt là rủi ro tác nghiệp - loại rủi ro cơ bản của nghiệp vụ thanh toán bằng L/C.


Kết luận chương 2

Tại chương 2 của Luận văn tác giả đã nêu khái quát thực tiễn áp dụng pháp luật về thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng tại Agribank trong đó tập trung một số vấn đề then chốt như: Tổ chức hoạt động thanh toán quốc tế tại Agribank, thực tiễn các quy định về thanh toán bằng L/C tại Agribank, một số rủi ro gặp phải trong phương thức tín dụng chứng từ tại Agribank. Bên cạnh đó tác giả cũng đưa ra những rủi ro thường gặp phải tại các NHTM nói chung trong thanh toán bằng L/C. Trên cơ sở những phân tích đánh giá đó, tác giả đưa ra nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động thanh toán bằng L/C nói chung.

Chương 3‌‌

CÁC BIỆN PHÁP, KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẨ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI AGRIBANK


3.1. CÁC KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THANH TOÁN BẰNG THƯ TÍN DỤNG TẠI VIỆT NAM.

3.1.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về thanh toán bằng L/C theo hướng tiếp cận gần hơn với chuẩn mực quốc tế về giao dịch thanh toán

3.1.1.1. Đối với Nhà nước, Chính phủ

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.

Thứ nhất cần nhanh chóng xây dựng văn bản pháp luật riêng về thanh toán bằng thư tín dụng bởi vì cho đến nay, lĩnh vực thanh toán bằng thư tín dụng vẫn chưa có văn bản riêng điều chỉnh. Các văn bản hiện hành có giá trị pháp lí điều chỉnh hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng đã trở nên quá lạc hậu không theo kịp với thực tiễn. Vì vậy đặt ra vấn đề xây dựng văn bản pháp luật mới điều chỉnh hoạt động thư tín dụng tại Việt Nam là phù hợp với yêu cầu của thực tiễn và thông lệ quốc tế là định hướng cơ bản để hoàn thiện pháp luật điều chỉnh lĩnh vực thanh toán này. Trong đó xây dựng những quy phạm điều chỉnh các vấn đề thiết yếu như:

- Những quy định chung: gồm các điều khoản về định nghĩa thư tín dụng; đối tượng hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng; điều khoản các giải thích các thuật ngữ liên quan như: ngân hàng thông báo, ngân hàng phát hành, ngân hàng chiết khấu, ngân hàng xác nhận…; điều khoản về luật áp dụng.

Các biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thanh toán bằng thư tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - 12

- Những quy định về điều kiện thực hiện nghiệp vụ thanh toán bằng thư tín dụng. Những quy định này phải cụ thể đối với từng chủ thể tham gia thanh toán bằng thư tín dụng: chủ thể cung ứng dịch vụ thanh toán và chủ thể sử dụng dịch vụ thanh toán bằng thư tín dụng.

- Quy định về thủ tục thực hiện các giao dịch thanh toán bằng thư tín dụng. Thủ tục thanh toán bằng thư tín dụng phải được xây dựng phù hợp với với thông lệ và tập quán quốc tết, đảm bảo quy trình thanh toán hiệu quả và hạn chế rủi ro.

- Những quy định về các biện pháp bảo đảm: ký quỹ, cầm cố, thế chấp, bảo đảm.

- Những quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong thanh toán bằng thư tín dụng.

- Những quy định về vi phạm và xử lý vi phạm.

Như vậy, việc xây dựng quy chế thanh toán bằng thư tín dụng phải đảm bảo phù hợp với các quy định pháp luật Việt Nam có liên quan như: luật các tổ chức tín dụng, luật thương mại, pháp lệnh ngoại hối, luật các công cụ chuyển nhượng, luật hải quan…Đồng thời phải phù hợp với thông lệ và tập quán quốc tế như: UCP, ISBP…

Thứ hai Bên cạnh đó cần có các quy định cụ thể tạo sự thống nhất về pháp lý cho những giao dịch giữa ngân hàng và khách hàng trong quan hệ giao dịch chứng từ. Thực tế các khách hàng đến ngân hàng yêu cầu mở thư tín dụng đều không có văn bản pháp luật có tính chất hợp đồng được thỏa thuận bằng văn bản. Hầu hết các ngân hàng chỉ quy định những loại giấy tờ như: đơn yêu cầu mở thư tín dụng, giấy cam kết thanh toán, đơn xin bảo lãnh ngân hàng và ký hậu vận đơn, thông báo thư tín dụng, đơn xin chiết khấu chứng từ… Các chứng từ này có tính chất là những giao dịch ngân hàng, không thể hiện được tính chất pháp lý và ràng buộc giữa các bên nên khi giải quyết tranh chấp sẽ gặp nhiều khó khăn.

Để thực hiện được những vấn đề trên đây, Quốc hội cần thiết phải đưa Thanh toán tín dụng bằng L/C vào chương trình xây dựng pháp luật. Phương thức L/C đang và chắc chắn vẫn sẽ là phương thức chủ yếu trong TTQT ở

Việt Nam. Vì vậy, cần có các văn bản Luật hoặc dưới luật (Luật, Pháp Lệnh, Nghị định) quy định rõ ràng, cụ thể trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của các bên tham gia cũng như trong trường hợp có xung đột pháp luật giữa UCP500, UCP 600 và luật pháp quốc gia

Thứ ba Do phương thức tín dụng chứng từ là một phương thức đã và đang được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam và do đó cần có các văn bản pháp lý giải thích rõ ràng về mối quan hệ giữa tập quán quốc tế UCP 600 và luật pháp trong nước. Đặc biệt đối với pháp luật trong nước điều chỉnh hoạt động này cần phải tiến hành một số sửa đổi. Cụ thể:

Sửa đổi, bổ sung điều 16 quyết định số 226/2002/QQĐ-NHNN:

Định nghĩa về thư tín dụng trong điều 16 quyết định 226 được xây dựng theo hướng liệt kê vừa dài dòng nhưng lại không đầy đủ, không thể áp dụng chung cho tất cả các loại thư tín dụng. hơn nữa, định nghĩa được xây dựng dưới góc độ hình thức thanh toán của thư tín dụng nên không phản ánh được bản chất của thư tín dụng. Cho nên đặt ra một yêu cầu đó là cần thiết phải xây dựng một khái niệm đầy đủ cho hoạt động này.

Khoản 2 điều 16 quyết định số 226 quy định: “việc mở, phát hành, sửa đổi, thông báo, xác nhận, kiểm tra chứng từ, thanh toán và quyền, nghĩa vụ cảu các bên liên quan trong thanh toán thưu tín dụng do các bên thanh toán thỏa thuận áp dụng và theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam”. Việc quy định liệt kê các hoạt động trong thanh toán bằng thư tín dụng có ưu điểm là rõ ràng nhưng lại thiếu tính bao quát. Cùng với việc sử dụng dấu ba chấm làm điều luật trở nên khó xác định. Theo ý kiến của nhóm Điều luật này có thể sửa lại như sau: “quy trình thanh toán bằng thư tín dụng và quyền, nghĩa vụ của các bên liên quan trong thanh toán bằng thư tín dụng do các bên thảo thuận áp dụng theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam”.

- Đối với khoản 1 điều 19 quyết định số 226 quy định hoạt động thanh

toán bằng thư tín dụng: việc mở phát hành, sửa đổi, thông báo, xác nhận, kiểm tra chứng từ, thanh toán và quyền, nghĩa vụ của các bên liên quan trong thanh toán bằng thư tín dụng thực hiện theo các quy tắc chung về tín dụng chứng từ do phòng thương mại quốc tế ICC ban hành, do các bên tham gia thanh toán thỏa thuận áp dụng và theo quy đinh hiện hành của pháp luật Việt Nam. Quy định này khá phức tạp, không rõ ràng. Vì vậy, có thể sửa đổi theo hướng: “thanh toán bằng thư tín dụng trong thanh toán quốc tế được điều chỉnh bởi quy tắc thực hành thống nhát về tín dụng chứng từ do phòng thương mại quốc tế ICC ban hành, do các bên thỏa thuận và theo qua định của pháp luật Việt Nam”.

- Quyết định số 711/2001/QĐ_NHNN quy định về quy chế mở thư tín dụng nhập hàng trả chậm nhưng không có định nghĩa thế nào là thư tín dụng trả chậm nên cần phải bổ sung giải thích về vấn đề này một cách hợp lý để việc hoạt động trở nên dễ dàng và không vướng mắc.

- Về giá trị tối thiểu của thư tín dụng, pháp luật hiện hành quy định giá trị tối thiểu của một thư tín dụng là 10 triệu đồng trong bối cảnh hiện nay là không hợp lý, làm giảm khả năng tự định đoạt của chủ thể trong quá trình thanh toán và làm mất đi tính chủ động, linh hoạt của họ trong việc lựa chọn dịch vụ thanh toán. Vì vậy, thiết nghĩ có thể thay đổi quy định này bằng cách để các chủ thể tự lựa chọn giá trị tối thiểu của thư tín dụng.

- Về thời hạn hiệu lực của thư tín dụng: pháp luật hiện hành quy định thời hạn hiệu lực của thư tín dụng là 3 tháng, kể từ ngày ngân hàng bên mua mở thư tín dụng nhưng lại không định nghĩa hay giải thích cụ thể nào về khái niệm thời hạn hiệu lực của thư tín dụng. Trong khi đó UCP500 đã quy định rất rõ về vấn đề này, tạo cơ hội cho các bên tự quyết định sao cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của họ, nên pháp luật Việt Nam cũng không nên áp đặt thời hạn hiệu lực của thư tín dụng là 3 tháng như vậy.

- Bên cạnh đó, cần có các quy định cụ thể tạo sự thống nhất về pháp lí cho những giao dịch giữa ngân hàng và khách hàng trong quan hệ tín dụng chứng từ. Thực tế, các khách hàng đến ngân hàng yêu cầu mở thư tín dụng đều không có văn bản có tính chất hợp đồng được thỏa thuận bằng văn bản. hầu hết, các ngân hàng chỉ quy định những loại giấy tờ như: đơn yêu cầu mở thư tín dụng, giấy cam kết thanh toán, đớn xin chiết khấu chứng từ… các chứng từ này có tính chất là những giao dịch ngân hàng, không thể hiện tính chất pháp lí và ràng buộc giữa các bên nên khi giải quyết tranh chấp sẽ gặp nhiều khó khăn.

- Một vấn đề nữa là phải tăng cường tính cưỡng chế của các phán quyết, các phán quyết của trọng tài hoặc toà án dựa trên UCP 600 phải được các bên tuân thủ và thực hiện. Ở Việt Nam hiện nay có một thực trạng là với quá trình tham gia hội nhập kinh tế, trong quan hệ với các nước bên ngoài, các bên Việt Nam thường phải hành động theo thông lệ quốc tế. Thế nhưng quan hệ giữa các bên trong nước luật pháp chưa thực sự bảo đảm quyền lợi của các bên và tính cưỡng chế còn thấp. Chính sự không đồng bộ trong mức phát triển về luật pháp trong nước và luật pháp quốc tế là một nguyên nhân gây ra tranh chấp giữa các bên.

3.1.1.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước

Ngân hàng Nhà nước cần tập trung xây dựng các điều kiện cần thiết trình Chính phủ ban hành những văn bản luật hoặc dưới luật về Thanh toán bằng thư tín dụng. Ngân hàng Nhà nước nên thành lập một đơn vị chuyên về TTQT trong đó có Thanh toán bằng L/C, có nhiệm vụ hướng dẫn chỉ đạo hoạt động này đối với các NHTM. Thực tế cho tới nay khi có phát sinh vướng mắc về TTQT, có nhiều Vụ, Cục phải tham gia (Vụ Pháp chế, Vụ Quản lý ngoại hối, Vụ Quan hệ quốc tế….).

3.1.1.3. Đối với Hiệp hội ngân hàng

Hiệp hội Ngân hàng cần thường xuyên tổ chức trao đổi về TTQT giữa các NHTM. Trên cơ sở đó, tập hợp các vướng mắc, các kiến nghị gửi Phòng Thương mại Quốc tế. Đồng thời xây dựng chuyên mục TTQT (Thanh toán bằng L/C) trong tạp chí của Hiệp hội (Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ), tiến tới xuất bản Tạp chí chuyên về TTQT./.

3.1.2. Cần có các quy định cụ thể về cách giải quyết khi có sự xung đột pháp luật giữa PLQG và thông lệ quốc tế về thanh toán bằng L/C

Bên cạnh việc xây dựng các văn bản luật hoặc dưới luật về tín dụng chứng từ, chúng ta cần có những quy định cụ thể về cách giải quyết các tranh chấp về TTQT nói chung và thanh toán bằng L/C nói riêng theo xu hướng tiệm cận hơn với pháp luật quốc tế. Cần có cơ chế rõ ràng giải quyết những xung đột giữa pháp luật quốc gia và thông lệ quốc tế về thanh toán bằng L/C.

3.2. CÁC KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH NỘI BỘ VỀ THÀNH TOÁN BẰNG THƯ TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM.

Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, Thanh toán bằng L/C dần dần chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động TTQT nói chung cũng như đem lại nguồn lợi nhuận chính cho các NHTM. Chính vì vậy, Agribank phải ban hành quy định, quy trình Thanh toán bằng L/C trong hệ thống của mình chặt chẽ, nhất quán, tuân theo quy tắc, thông lệ quốc tế, không trái pháp luật Việt Nam và phù hợp với mô hình tổ chức, bộ máy Agribank. Các quy định càng cụ thể rõ ràng bao nhiêu, càng giúp cho cán bộ tránh sai sót bấy nhiêu. Chẳng hạn quy trình nếu xảy ra từ chối thanh toán L/C, xác định lỗi thế nào, mức độ từ chối phải báo cáo ngân hàng cấp trên trước khi quyết định, quan hệ với khách hàng nhập khẩu khi từ chối thanh toán v.v... là rất cấn thiết cho các chi nhánh và cán bộ thực hiện. Agribank cần thường xuyên trao đổi kinh nghiệm, phối hợp

với các Ngân hàng thương mại trong nước và ngoài nước trong hoạt động TTQT nói chung và thanh toán bằng L/C nói riêng. Thanh toán bằng L/C dịch vụ đem lại nguồn thu lớn trong hoạt động Thanh toán quốc tế, tuy nhiên có yếu tố nước ngoài nên rủi ro lớn. Khi các quy tắc, quy ước quốc tế, luật lệ trong nước có bổ sung, thay đổi thì Agribank cũng phải kịp thời bổ sung, chỉnh sửa quy định cho phù hợp.

Ban Quan hệ quốc tế NHNo&PTNT Việt Nam và Sở giao dịch Agribank với vai trò là đấu mối cho hoạt động thanh toán quốc tế của Agribank cần nghiên cứu ban hành, sửa đổi, bổ sung các văn bản hướng dẫn cũng như các văn bản liên quan khác đến hoạt động TTQT đê các Chi nhánh có cơ sở triển khai hoạt động về thanh toán bằng L/C.

Quy trình nghiệp vụ là văn bản pháp lý quy định rõ các bước thực hiện của từng nghiệp vụ thanh toán quốc tế, nhiệm vụ và trách nhiệm của các cá nhân, bộ phận tham gia trong nghiệp vụ đó. Quy trình nghiệp vụ rõ ràng sẽ là cẩm nang để các cán bộ tác nghiệp thực hiện đúng trách nhiệm của mình, nâng cao năng lực kiểm soát hoạt động thanh toán quốc tế.

3.2.1. Sửa đổi, bổ sung quy trình nghiệp vụ liên quan đến TTQT nói chung và Thanh toán bằng L/C nói riêng áp dụng chung trong hệ thống Agribank

- Quyết định số 388/HĐQT-QHQT ngày 05/9/2005 về việc ban hành quy định quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh ngoại hối trong hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.

- Quyết định số 1998/QĐ-NHNo-QHQT ngày 15/12/2005 của Tổng giám đốc NHNo&PTNT VN về việc ban hành Qui định về qui trình nghiệp vụ thanh toán quốc tế trong hệ thống NHNo&PTNT VN;

- Quyết định số 858/QĐ-NHNo-QHQT ngày 29/06/2007 của Tổng giám đốc NHNo&PTNT VN về việc sửa đổi, bổ sung Qui định về qui trình nghiệp vụ thanh toán quốc tế trong hệ thống NHNo&PTNT VN;

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 10/10/2023