của người tham gia tố tụng trong hoạt động điều tra. Những sửa đổi, bổ sung đó phù hợp với định hướng tăng cường tính dân chủ trong hoạt động tố tụng, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay ở nước ta theo tinh thần Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Trong giai đoạn này cũng bổ sung những quy định mới theo hướng cụ thể và rành mạch hóa quyền hạn điều tra của cơ quan điều tra và quy định cụ thể về vấn đề chuyển vụ án để điều tra theo thẩm quyền.
Hạn chế trước đây của các quy định về quyền hạn điều tra thể hiện ở một số điểm thiếu tính thực tế (đối với cơ quan điều tra của Viện kiểm sát), thiếu tính cụ thể (không quy định cụ thể quyền hạn điều tra của cơ quan điều tra các cấp) và đặc biệt là thiếu tính rành mạch trong việc phân định quyền hạn điều tra của cơ quan Cảnh sát điều tra và An ninh điều tra đối với một số loại tội phạm. Những hạn chế đó của pháp luật tố tụng hình sự không chỉ gây khó khăn cho việc áp dụng pháp luật mà còn tạo ra khả năng phát sinh hiện tượng tiêu cực là đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan điều tra, nhất là giữa cơ quan Cảnh sát điều tra và An ninh điều tra. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004 đã bổ sung một số quy định mới nhằm khắc phục những hạn chế đã nêu và do đó, quyền hạn điều tra của các cơ quan điều tra thuộc các lực lượng và các cấp khác nhau đã mang tính hợp lý, cụ thể, rành mạch hơn trước.
Việc cụ thể hóa nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra và Điều tra viên cũng đã rò ràng hơn. Trong mọi hoạt động, việc phân công, phân nhiệm cụ thể cho từng thành viên tham gia là một trong những điều kiện quan trọng đảm bảo sự thành công, trong khi pháp luật tố tụng hình sự trước đây chỉ quy định chung mà chưa quy định một cách đầy đủ và cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của thủ trưởng cơ quan điều tra, đặc biệt chưa có sự phân biệt giữa chức năng quản lý hoạt động tố tụng và chức năng tiến hành tố tụng của thủ trưởng cơ quan điều tra. Để khắc phục
khiếm khuyết nêu trên, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của thủ trưởng cơ quan điều tra khi thực hiện chức năng quản lý hoạt động tố tụng của cơ quan điều tra (khoản 1 Điều 34) và khi thực hiện chức năng tiến hành tố tụng trong hoạt động điều tra vụ án hình sự (khoản 2 Điều 34). Đồng thời, tại điều luật này cũng đã bổ sung một số quy định mới về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của phó thủ trưởng cơ quan điều tra với tư cách là người giúp việc của thủ trưởng cơ quan điều tra trong việc thực hiện chức năng quản lý hoạt động điều tra và với tư cách là một chức danh tố tụng độc lập.
Tính không cụ thể cũng thể hiện khá rò trong các quy định trước đây về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Điều tra viên. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1989 chưa giao quyền độc lập tiến hành một số hoạt động điều tra cho Điều tra viên mà còn phụ thuộc vào quyết định của thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra. Mặc dù trực tiếp tiến hành hoạt động điều tra vụ án, nhưng Điều tra viên chỉ được đánh giá là người giúp việc cho thủ trưởng cơ quan điều tra. Trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Điều tra viên được cụ thể hóa ở mức cao, về cơ bản đảm bảo cho Điều tra viên những khả năng thực tế trở thành chủ thể có quyền chủ động trong hoạt động của mình và có cơ sở tự tin, sẵn sàng chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước thủ trưởng cơ quan điều tra về những hành vi và quyết định của mình.
Điều đáng chú ý là trong giai đoạn này đã bổ sung được nhiều quy định mới khác phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn hoạt động điều tra hình sự, tạo cơ sở nâng cao chất lượng hoạt động này. Trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004, bên cạnh những thay đổi lớn về mô hình tổ chức cơ quan điều tra, thẩm quyền điều tra, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan điều tra và Điều tra viên còn nhiều quy định mới được bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu của việc nâng
cao hiệu quả hoạt động điều tra hình sự như: tăng thời hạn điều tra của các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; cụ thể hóa nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra và kiểm sát điều tra; sửa đổi thẩm quyền gia hạn thời hạn điều tra và thời hạn tạm giam để điều tra của Viện kiểm sát theo hướng tăng thẩm quyền cho Viện kiểm sát cấp dưới...
Lần đầu tiên vấn đề chất lượng đội ngũ Điều tra viên được quan tâm giải quyết khá toàn diện thông qua việc quy định chặt chẽ cụ thể tiêu chuẩn, thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm Điều tra viên. Những thay đổi này tuy không lớn nhưng là cần thiết nhằm giúp hệ thống pháp luật về hoạt động điều tra hình sự ngày càng tiến dần đến sự hoàn thiện và góp phần nâng cao chất lượng hoạt động điều tra trong thời gian tới.
Có thể khẳng định rằng, các quy định pháp lý về hoạt động điều tra hình sự về cơ bản ngày một hoàn thiện, đáp ứng khá kịp thời đòi hỏi của thực tiễn điều tra hình sự, góp phần đáng kể vào những thành tựu mà cơ quan điều tra đã đạt được trong thời gian qua.
Có thể bạn quan tâm!
- Các biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự - 1
- Các biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự - 2
- Khái Quát Các Quy Định Của Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Về Biện Pháp Điều Tra Trong Tố Tụng Hình Sự
- Lấy Lời Khai Người Làm Chứng, Người Bị Hại, Nguyên Đơn Dân Sự, Bị Đơn Dân Sự, Người Có Quyền Lợi, Nghĩa Vụ Liên Quan Đến Vụ Án
- Các biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự - 6
- Khám Xét, Thu Giữ Thư Tín, Điện Tín, Bưu Kiện, Bưu Phẩm Tại Bưu Điện
Xem toàn bộ 101 trang tài liệu này.
Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã nêu rò:
Xác định rò nhiệm vụ của cơ quan điều tra trong mối quan hệ với các cơ quan khác được giao một số hoạt động điều tra theo hướng cơ quan điều tra chuyên trách điều tra tất cả các vụ án hình sự, các cơ quan khác chỉ tiến hành một số hoạt động điều tra sơ bộ và tiến hành một số biện pháp theo yêu cầu của cơ quan điều tra chuyên trách. Trước mắt tiếp tục thực hiện mô hình tổ chức cơ quan điều tra theo pháp luật hiện hành; nghiên cứu và chuẩn bị mọi điều kiện để tiến tới tổ chức lại cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối, kết hợp chặt chẽ giữa công tác trinh sát và hoạt động điều tra tố tụng hình sự [3].
Như vậy, nhiệm vụ của công tác lập pháp tố tụng hình sự trong thời gian tới còn khá nặng nề nhưng thành tựu mà nó đạt được trong những năm qua sẽ là tiền đề đáng tin cậy cho việc đạt được những mục tiêu đã đề ra.
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC BIỆN PHÁP ĐIỀU TRA
2.1. KHỞI TỐ BỊ CAN VÀ HỎI CUNG BỊ CAN
2.1.1. Khởi tố bị can
Khởi tố bị can là việc cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố đối với một người khi có đủ căn cứ xác định rằng người đó đã thực hiện hành vi phạm tội.
Quyết định khởi tố bị can phải ghi rò thời gian, địa điểm ra quyết định, họ, tên, chức vụ của người ra quyết định; họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình của bị can; bị can bị khởi tố về tội gì, theo điều khoản nào của Bộ luật Hình sự; thời gian, địa điểm phạm tội và những tình tiết khác của tội phạm.
Nếu khởi tố bị can về nhiều tội khác nhau thì trong quyết định khởi tố bị can phải ghi rò từng tội danh và điều khoản của Bộ luật Hình sự được áp dụng.
Cơ quan ra quyết định khởi tố bị can phải giao quyết định và giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị can. Bị can ký vào biên bản giao nhận.
Quyết định khởi tố bị can của cơ quan điều tra được gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp.
Có thể nói, quyết định khởi tố bị can là văn bản pháp lý cần thiết để cơ quan điều tra áp dụng tất cả các biện pháp ngăn chặn, thu thập chứng cứ; biện pháp đảm bảo việc giải quyết vụ án đối với bị can.
Theo Điều 126 Bộ luật Tố tụng hình sự thì trong thời gian không quá 3 ngày kể từ ngày nhận được quyết định khởi tố bị can, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can. Tuy
nhiên trong thực tiễn có trường hợp cơ quan điều tra chuyển quyết định khởi tố bị can và hồ sơ sang Viện kiểm sát để đề nghị phê chuẩn quyết định khởi tố bị can nhưng Viện kiểm sát xét thấy tuy chưa đủ căn cứ để phê chuẩn nhưng đã có những tài liệu, chứng cứ chứng tỏ người bị cơ quan điều tra khởi tố là đã có hành vi vi phạm pháp luật cần điều tra thêm các chứng cứ khác cho chặt chẽ, vì thế không thể trả tự do cho người đó được. Điều 126 không quy định trường hợp này Viện kiểm sát phải có thủ tục gì. Thông thường, Viện kiểm sát sẽ có công văn từ chối phê chuẩn và đề nghị cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, nhưng điều này sẽ chỉ hợp lý khi thời hạn điều tra thêm trong khoảng thời gian 3 ngày dành cho Viện kiểm sát phê chuẩn, nếu việc điều tra thêm kéo dài hơn khoảng thời gian 3 ngày, tức là có thể kéo dài thêm thời hạn tạm giữ thì vẫn chưa có hướng giải quyết. Điều này gây khó khăn trong việc áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng. Trong trường hợp này, pháp luật nên quy định thêm thời hạn phê chuẩn quyết định khởi tố bị can.
Điều 127 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định về việc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can trong trường hợp có căn cứ xác định bị can phạm vào một tội khác với tội đã bị khởi tố. Như vậy là chưa đầy đủ, bởi vì có thể phải thay đổi những nội dung khác của quyết định khởi tố bị can, ví dụ như tên, tuổi, nơi cư trú của bị can... Vì lúc đầu có thể bị can khai họ, tên và nơi cư trú không đúng nhằm lẩn tránh sự điều tra, vì vậy, quy định tại Điều 127 nên sửa theo hướng có thể thay đổi, bổ sung nhiều nội dung trong quyết định khởi tố bị can khi cần thay đổi họ tên bị can cho phù hợp hoặc khi có căn cứ và cần thiết khác.
2.1.2. Hỏi cung bị can
Hỏi cung bị can là biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự, do Điều tra viên tiến hành bằng cách tác động trực tiếp vào tâm lý bị can nhằm mục đích thu được lời khai trung thực, đúng đắn và đầy đủ về hành động phạm tội
của bị can và đồng bọn cũng như những tin tức cần thiết khác góp phần làm sáng tỏ sự thật của vụ án.
Trong hoạt động hỏi cung bị can, Điều tra viên là chủ thể chính với tư cách là người đại diện cho cơ quan nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng, có vai trò tổ chức và thực hiện kế hoạch hỏi cung bị can. Điều tra viên được pháp luật cho phép áp dụng mọi phương pháp, biện pháp hợp pháp; sử dụng mọi khả năng, kinh nghiệm nghề nghiệp và những hiểu biết trong lĩnh vực chuyên môn của mình để tiến hành công tác hỏi cung bị can. Đối tượng được hỏi cung là những người đã bị khởi tố với tư cách là bị can. Bị can được pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ trong khi thực hiện việc khai báo về hành vi phạm tội của bản thân và đồng bọn cũng như các thông tin khác cần thiết theo yêu cầu của Điều tra viên để làm sáng tỏ sự thật về vụ án.
Thông qua hoạt động hỏi cung, cơ quan điều tra có thể làm rò tính chất của vụ án, vai trò và hành động của từng bị can. Đồng thời cũng chính thông qua hỏi cung, Điều tra viên thu thập những chứng cứ kể cả buộc tội và gỡ tội, chứng minh mức độ phạm tội của từng bị can, và trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được về diễn biến của vụ án mà có kết luận điều tra đúng đắn.
Hoạt động hỏi cung hướng vào việc thu thập các tài liệu về âm mưu, thủ đoạn hoạt động của các tổ chức tội phạm để mở rộng công tác đánh địch, kịp thời áp dụng các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn cần thiết. Cùng với sự hỗ trợ của các biện pháp trinh sát bí mật, hỏi cung có thể phát hiện được bọn tội phạm đang lẩn trốn để kịp thời truy bắt, phát hiện ra các vật chứng, nơi cất giấu và tẩu tán vật chứng để kịp thời thu giữ.
Hoạt động hỏi cung cũng đòi hỏi phải đảm bảo bí mật các thủ pháp nghiệp vụ, chuyển hóa tài liệu trinh sát thành chứng cứ, đồng thời tạo điều kiện mở rộng phạm vi điều tra...
Ngoài ra, hoạt động hỏi cung còn có thể góp phần tích cực vào việc nghiên cứu, làm rò nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm, phát hiện những sơ hở, thiếu sót của các cơ quan nhà nước trong việc chấp hành chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước để đề xuất các biện pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
Hỏi cung bị can là một biện pháp cơ bản của hoạt động điều tra tố tụng hình sự. Trong thực tiễn, đây là một biện pháp điều tra phổ biến nhất, có khả năng thu nhiều tin tức nhất về vụ án đang điều tra cũng như các tin tức khác mà cơ quan điều tra cần thu thập. Xét hỏi tốt có thể tìm ra nguyên nhân, điều kiện phát sinh, thúc đẩy tội phạm, cũng như những sơ hở, thiếu sót của ta mà kẻ phạm tội đã lợi dụng để làm việc phạm tội. Lời cung khai trung thực, đầy đủ là những nguồn chứng cứ rất có giá trị; ngược lại, lời khai giả dối, bịa đặt lại rất nguy hiểm, có thể cho ta nhận định sai sự thật, bỏ lọt kẻ phạm tội, làm oan người vô tội, gây tổn thất cho xã hội.
Điều 131 Bộ luật Hình sự quy định:
1. Việc hỏi cung bị can phải do Điều tra viên tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can. Có thể hỏi cung bị can tại nơi tiến hành điều tra hoặc tại nơi ở của người đó.
Trước khi hỏi cung, Điều tra viên phải đọc quyết định khởi tố bị can và giải thích cho bị can biết về quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 49 của Bộ luật này. Việc này phải được ghi vào biên bản.
Nếu vụ án có nhiều bị can thì hỏi riêng từng người và không để họ tiếp xúc với nhau. Có thể cho bị can tự viết lời khai của mình.
2. Không hỏi cung vào ban đêm, trừ trường hợp không thể trì hoãn được, nhưng phải ghi rò lý do vào biên bản.