a. Rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới
Kiểu rừng này thường phân bố ở độ cao dưới 800m, nhưng do ảnh hưởng của độ dốc, hướng phơi mà loại rừng này có thể phân bố ở độ cao 900 – 1000m. Kiểu rừng này bao phủ phần lớn dãy núi Tam Đảo với những loài cây có giá trị kinh tế như Chò Chỉ (Shoera chinensis), Giổi (Michelia sp..), Re (Cinnamomum sp.)…
Do sự gia tăng dân số quá nhanh và nhu cầu về gỗ củi của nhân dân trong vùng cũng tăng theo, nên kiểu rừng này cũng bị khai thác, lợi dụng nhiều trong những năm từ 1970 – 1995.
Diện tích kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới nguyên sinh còn lại rất ít, đa phần đã bị tàn phá với hình thức chặt chọn làm kết cấu tổ thành loài và tầng thứ thay đổi nhiều. Nhìn chung quần hệ thực vật kiểu rừng này gồm nhiều tầng có chiều cao tới 25m, tán kín rậm với những loài cây lá rộng thường xanh hợp thành.
- Tầng vượt tán hình thành bởi một số loại cây họ Dầu (Dipterocarpaceae) như: Chò nâu (Dipterocarpus petusus), Táu muối (Vatica fleuryana), Giổi (Michelia sp.), và Trường mật (Pavviesia anamensis)…
- Tầng ưu thế gồm số loài cây thuộc họ Re (Lauraceae), họ Dẻ (Fagaceae), họ Sim (Myrtaceae), họ Cà phê (Rubiaceae).
- Tầng dươí tán gồm một số loài cây mọc rải rác dưới tán rừng thuộc các họ Máu chó (Myristicaceae), họ Na (Annonaceae).
- Dưới nữa là tầng cây bụi có các loài thuộc họ Cà phê (Rubiaceae), Đơn nem (Myrsinaceae), họ Trúc đào (Apocynaceae). Cuối cùng là tầng cỏ, quyết. Ở những nơi khe ẩm có xuất hiện loài quyết thân gỗ.
b. Rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi trung bình.
Rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi trung bình ở Tam Đảo phân bố ở độ cao 800m trở lên nhưng đôi khi phân bố trên 900m. Quần hệ thực vật của kiểu rừng này không còn các loài thuộc họ Dầu (Dipterocarpaceae). Thực vật bao gồm các loài thuộc họ Re (Lauraceae), họ Dẻ (Fagaceae), họ Chè (Theaceae), họ Mộc lan (Magnoliaceae), họ Sau sau (Hamamelidaceae). Đây là vành đai của những loài cây thuộc khu hệ á nhiệt đới, còn được gọi là vành đai mây. Không khí luôn ở tình trạng bão hoà hơi nước, nên tạo điều kiện thuận lợi cho Rêu và Địa y phát triển. Ngoài những cây thuộc các họ kể trên, từ độ cao 100m trở lên xuất hiện một số loài cây thuộc
ngành Hạt Trần như Thông nàng (Dacrycarpusimbricatus), Pơ mu (Fokienia hodginsii), Thông tre (Podocarpus neriifoius). Ngoài ra, còn thấy các loài Thông yên tử (Podocarpus pilgeri), và Kim giao (Nageia fleuryi).
Ở một vài nơi trên sườn Đông núi Tam Đảo thuộc huyện Đại Từ, mật độ cây Hạt Trần dày hơn, chủ yếu là Pơ mu (Fokienia hodginsii) tạo nên một quần thể hỗn hợp giữa các loài cây lá rộng và lá kim còn gọi là kiểu phụ hỗn hợp lá rộng, lá kim.
Dưới tán rừng á nhiệt đới thường có Vầu đắng. Lên cao hơn nữa là Sặt gai (Arundinaria giffithiana) mọc dày đặc dọc theo các dông núi. Ven theo các sườn núi thường có các loài cây bụi thuộc họ Cà phê (Rubiaceae), họ Đơn nem (Myrsinaceae), họ Thầu dầu (Euphorbiaceae)…
c. Rừng lùn trên đỉnh núi
Rừng lùn trên đỉnh núi là một kiểu phụ đặc thù của rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp được hình thành trên các đỉnh dông dốc hay trên các đỉnh núi cao đất xương xẩu, nhiều nắng gió, mây mù thường xuyên bao phủ. Cây cối ở đây thường thấp bé, phát triển chậm, thân và cành được Địa y và Rêu bao phủ. Đất dưới tầng rừng khá mỏng nhưng có tầng thảm mục khá dầy (ở một số nơi như đỉnh Rùng Rình, tầng thảm mục có thể dày hơn 1m).
Thực vật chủ yếu là các loài cây thuộc họ Đỗ quyên (Ericaceae), Giổi nhung (Michelia faveolata), Hồi núi (Illicium griffithii). Từ các đỉnh cao của Tam Đải xuống thấp hơn, các loài thuộc họ Đỗ quyên giảm dần, các loài thuộc họ Re (Lauraceae), họ Hồi (Illiciaceae), họ Thích (Aceraceae) tăng lên về số lượng cá thể.
d. Rừng tre nứa
Khi rừng thuộc hai loại trên bị tàn phá thì các loài Tre, nứa mọc xen vào hoặc chuyển hẳn thành rừng Tre, nứa. Ở đai cao hơn 800m, loài tre tiêu biểu là Vầu và Sặt gai. Đai trung bình là Giang (ở độ cao từ 500 – 800m), còn thấp hơn (dưới 500m) là Nứa.
e. Rừng phục hồi sau nương rẫy
Vườn quốc gia Tam Đảo có 23 xã vùng đệm nằm trên địa bàn 3 tỉnh Vĩnh Phúc, Thái Nguyên, Tuyên Quang bao quanh. Rừng ở đây trước những năm 90 bị tác động mạnh bởi hoạt động khai thác gỗ của các Lâm trường đóng trên địa bàn giáp ranh với Vườn và canh tác nương rẫy của nhân dân vùng đệm. Sau khi thành lập Vườn quốc gia Tam Đảo, việc đốt nương làm rẫy giảm xuống rõ rệt. Do tác động mạnh của con người, thành phần thực vật ở đây ít nhiều có biểu hiện cho thực vật rừng thứ sinh được phục hồi sau khi đất được sử dụng cho canh tác nương rẫy hoặc phục hồi sau khi rừng được khai thác.
Sau khi khai thác, làm nương rẫy rừng được khôi phục bởi các loài như Bục trắng (Mallotus apelta), Bục bạc (Mallotus paniculatus), Ba soi (Macaranga denticulata), Bồ cu vẽ, Thẩu tấu, Dền, Dung, Màng tang,… Loại hình rừng này thường mọc thành các chòm rải rác thuộc các xã như Quân Chu, Phú Xuyên, La Bằng thuộc huyện Đại Từ và các xã Hợp Hoà, Kháng Nhật thuộc huyện Sơn Dương.
Trên các loại đất Feralit đỏ vàng, đỏ nâu, vàng, có rừng thứ sinh với thành phần loài cây phong phú hơn cụ thể các loài cây tiên phong ưa sáng mọc nhanh trong đó đáng lưu ý nhất là Mán đỉa (Pithecolobium clypearia), Chẹo tía, Dung, Lim xẹt,…
Rừng phục hồi ít bị tác động được thấy ở các xã thuộc huyện Sơn Dương. Do các diện tích đó được giao khoán cho người dân chăm sóc. Vì vậy, các loài thực vật rừng có giá trị còn tồn tại khá phong phú, trong đó Lim xanh, Trâm, Mán đỉa, Côm, Trám, các loài họ Xoan, đại diện các loài Ficus spp. (họ Moraceae), Thôi chanh, Sòi tía, Sau sau, một số loài cây bụi và thảo thuộc họ Mua hoặc Dương xỉ thân gỗ Cyathea, và các loài thuộc Dương xỉ.
g. Rừng trồng
Rừng trồng Tam Đảo đã có từ thời kỳ Pháp thuộc. Đó là những diện tích rừng Thông đuôi ngựa (Pinus massoniana) được trồng dọc hai ven đường lên thị trấn Tam Đảo để tạo cảnh quan đẹp cho khu du lịch Tam Đảo, cải thiện môi trường sinh thái và rừng Lim xanh rất tươi tốt chạy dọc theo dải đồi thấp từ xóm Thông đến gần Đồng Giếng. Do con người chặt phá nên hiện nay rừng đó chỉ có khoảng 190ha ở Phù Mây với mật độ 300cây/ha. Loài dứa hao được trồng dưới tán rừng Lim xanh sinh trưởng phát triển rất tốt cho năng suất cao và chất lượng quả ngon.
Năm 1962, công tác trồng rừng mới được bắt đầu trở lại ở Tam Đảo. Loài cây trồng chủ yếu là những loài cây nhập nội như Thông, Bạch đàn và gần đây là Keo lá tràm và Keo tai tượng, tạo thành 3 loại rừng chính:
- Rừng Thông đuôi ngựa:
Rừng Thông đuôi ngựa trồng ở độ cao và lập địa khác nhau. Rừng dưới 10 tuổi có mật độ 1.400 – 1.800 cây/ha, cao nhất 2.200cây/ha. Rừng ở độ tuổi 15 có mật độ trung bình từ 1.300 – 1.400 cây/ha. Nhưng ở tuổi trên 20, mật độ chỉ còn lại từ 700 – 900cây/ha. Mật độ giảm sút này là do hậu quả của việc chặt phá của dân trong vùng. Ở
tuổi 20, đường kính trung bình 20cm, chiều cao biến động từ 14-17m với trữ lượng 200m3/ha. Nhìn chung, rừng phát triển đều, lượng sinh trưởng trung bình về đường kính từ 0,6 – 1cm/năm.
- Rừng Bạch đàn:
Bạch đàn là cây nhập nội được trồng từ năm 1962 chủ yếu là Bạch đàn liễu (Eucalyptus exerta). Loài cây này sinh trưởng chậm nhưng có khả năng phát triển trên những vùng đồi cao. Trong một thời gian dài, Bạch đàn liễu là cây chủ yếu. HIện nay những rừng Bạch đàn liễu cơ bản đã được khai thác hết. Giống Bach đàn mới (Eucalyptus camaldulensis), nhập từ Australia đã được trồng hầu khắp xung quanh chân núi Tam Đảo. Loài cây này có khả năng sinh trưởng nhanh cả về đường kính và
chiều cao. Với mật độ trồng 2.500cây/ha và tốc độ sinh trưởng nhanh, rừng trồng Bạch đàn chỉ 2 năm đã khép tán.
Một số xã ven Tam Đảo thuộc huyện Sơn Dương và Tam Đảo còn trồng thêm loại Bạch đàn mà dân ở đây quen gọi là Bạch đàn “ Rau dền” (Eucalyptus urophylla). Bạch đàn này sinh trưởng chiều cao chậm hơn so với Bạch đàn trắng, nhưng sinh trưởng đường kính cũng không kém. Ưu điểm của loài này là thân cây cứng chắc, mọc thẳng và ít bị đổ nghiêng khi còn non.
- Rừng Keo
Loài Keo được trồng phổ biến hiện nay là Keo lá tràm (Acasia auriculiformis) và Keo tai tượng (Acacia mangium). Chúng là những loài cây thuộc họ Vang (Caesalpiniaceae) được nhập nội và trồng ở nước ta trong nhiều năm. Keo ở Tam Đảo nhìn chung sinh trưởng tốt. Nó được trồng thuần loài và trồng hỗn giao với Bạch đàn. Cây có đặc điểm: Tán lá dày chậm phân huỷ, rễ cây có nốt sần nên có tác dụng che phủ và cải tạo đất rất tốt. Nhưng Keo có nhược điểm phân cành sớm, nhiều thân, cây nhỏ, giá trị sử dụng kém nên hiện nay ít được phát triển.
h. Trảng cây bụi
Thành phần thực vật trảng cây bụi không phong phú nhưng số lượng cá thể lại nhiều. Nguyên nhân chính là do sự thoái hoá của đất, thành phần dinh dưỡng nghèo, độ ẩm thấp, xói mòn xảy ra mạnh mẽ. Đây là những vùng núi đất phát triển đá sa thạch, Phiến thạch sau nhiều lần rừng bị khai phá làm nương hoặc chặt trắng hoặc bị đốt cháy thường xuyên hoặc sau khai thác mỏ (mỏ thiếc Sơn Dương, mỏ thiếc than núi Hồng, Đại Từ) các loại trảng được hình thành, sau đó các loại cây bụi ưu sáng mọc nhanh cũng xuất hiện và phát triển tốt. Thành phần các loài cây bụi ở đây là các cây ưu sáng, chịu hạn, nhiều khi có cả lá cứng và có gai. Phổ biến là Thẩu tấu (Aporosa dioica), Thổ mật (Bridelia tomentosa), Thao kén (Helicteres spp), Bồ cu vẽ (Breynia fruticosa), Me rừng (Phyllanthus emblica), Mua rừng (Melastoma soptemnervium), Sim
(Rhodomyrtus tomentosa), Màng tang (Litsea cubeba), Sầm (Memexylon edule), Chổi xuể (Baeckea frutescens), Lau (Sacharum), Tơ xanh (Casytha filiormis), Bòng bong (Lygodium sp.), Kim cang (Smilax sp.), Cỏ tranh (Imperata cylindrica), Seo gà (Pteris multifida),…, số cá thể nhiều thường tập trung vào một số họ như họ Mua (Melastomaceae), họ Sim (Myrtaceae), họ Hoà Thảo (Poaceae).
i. Trảng cỏ
Thành phần thực vật trảng cỏ được hình thành trên các kiểu rừng đã bị khai thác, đất bị thoái hoá mạnh do đốt nương hàng năm, có thể phân biệt bằng hai loại hình sau:
- Trảng cỏ cao: Thường gồm các loài cỏ cao khoảng 2m mọc thành từng bụi như: Lách (Saccharum spontaneum), Cỏ chít (Thysanolema maxima), mọc chung với Cỏ lào (Chromolaena odorata), rải rác trên trảng cỏ này có các cây bụi như: Thao kén (Helicteres spp.), Chổi xuể (Baeckea frutescens), Thẩu tấu (Aporosa dioica), Bùm bụp (Mallotus barbatus), Bồ cu vẽ (Breynia fruticosa)… Trảng cỏ cao phân bố rải rác ở độ cao dưới 400m ở các bãi trống ven đường Tam Đảo 1.
- Trảng cỏ thấp: Thường gồm các loài cỏ thấp hơn 1m, mọc thành thảm cỏ dày đặc hoặc rải rác. Thành phần loài tương đối nghèo nàn, Cỏ tranh (Imperata cylindrica) chiếm ưu thế. Ngoài ra còn có Cỏ đắng (Paspalum scrobiculatum), Cỏ sâu róm (Setaria viridis),…
3.5. Hệ thực vật
Đặc điểm về địa hình, hướng phơi, độ cao, khí hậu, thuỷ văn, tác động của con người kết hợp với đặc tính sinh thái của từng loài cây đã tạo nên tính đa dạng về loài sự phân bố, giá trị sử dụng, và các loài cây quý hiếm của hệ thực vật ở Tam Đảo.
Nhìn chung, hệ thực vật ở Tam Đảo khá phong phú, được phân bố trên nhiều sinh cảnh khác nhau như: Trảng cây bụi, trảng cỏ, các loài cây gỗ trên núi đất và núi đá. Đến nay ở Vườn quốc gia Tam Đảo đã điều tra thống kê được 1436 loài thuộc 741 chi trong 219 họ của 6 ngành thực vật, cụ thể là:[19]
Bảng 3.3. Thành phần hệ thực vật VQG Tam Đảo
Tên ngành | Số loài | Tỷ lệ (%) | |
1 | Hạt kín | 1149 | 80,01 |
2 | Hạt trần | 17 | 1,18 |
3 | Thông đất | 13 | 0,91 |
4 | Cỏ tháp bút | 1 | 0,07 |
5 | Dương xỉ | 59 | 4,11 |
6 | Rêu | 197 | 13,72 |
Tổng số | 1436 | 100,00 |
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển du lịch sinh thái Vườn quốc gia Tam Đảo trong bảo tồn đa dạng sinh học - 5
- Số Liệu Khí Tượng Của Các Trạm Trong Khu Vực Tam Đảo
- Vai Trò Vqg Tam Đảo Đối Với Bảo Tồn Đa Dạng Sinh Học Và Bảo Vệ Môi Trường Vùng Đồng Bằng Bắc Bộ Và Việt Nam
- Số Loài Động Vật Quý Hiếm Ở Vườn Quốc Gia Tam Đảo
- Cơ Chế Chính Sách Hiện Hành Phát Triển Du Lịch Sinh Thái .
- Định Hướng Phát Triển Dlst Ở Vqg Tam Đảo.
Xem toàn bộ 149 trang tài liệu này.
( Nguồn VQG Tam Đảo 2007)[19]
Trong đó có 58 loài mang nguồn gen quí hiếm và 68 loài đặc hữu có trong sách đỏ của Việt Nam và sách đỏ thế giới. Những loài này được ưu tiên, bảo tồn và phát triển.
Ở Tam Đảo cũng có khá nhiều nhóm cây có gia trị kinh tế như nhóm cây gỗ, cây thuốc, cây làm rau, cây cung cấp tanin, cây ăn quả và cây cảnh. Hệ thực vật nơi đây tập trung nhiều loài có quan hệ với thực vật Nam Trung Quốc và một số loài mang tính chất ôn đới.