Các Khái Niệm Liên Quan Đến Đề Tài

đã biết hoặc giả định là biết) và phần báo (cái mới). Chúng ta sẽ gọi sự phân đoạn này là phân đoạn thông báo (phân đoạn ngữ nghĩa).

Cao Xuân Hạo lại bác bỏ ý kiến đồng nhất cấu trúc đề - thuyết và cấu trúc thông tin. Ông khẳng định cấu trúc đề - thuyết thuộc bình diện cú pháp còn cấu trúc thông tin thuộc bình diện ngữ dụng. Theo ông, cấu trúc đề - thuyết với tư cách là cấu trúc cú pháp của câu, luôn "chia hết câu làm hai phần" còn cấu trúc thông báo trình bày "thông tin mới" có hạt nhân là tiêu điểm có thể hết cả câu hoặc một phần bất kỳ (đôi khi là một từ làm bổ ngữ hoặc định ngữ) hoặc hai phần cách nhau trong câu (chẳng hạn như khi trả lời một câu hỏi như "ai đánh ai?") [17,117].

Tác giả Diệp Quang Ban thì quan niệm câu với tư cách thông điệp có thể chứa phần nội dung "cho sẵn" (given) và phần nội dung "mới" (new) là phần mang tin. Cách tổ chức phần "cho sẵn" và phần "mới" tạo thành cấu trúc thông tin trong câu. Cấu trúc đề - thuyết và cấu trúc thông tin cùng thực hiện chức năng văn bản nhưng vẫn là hai hiện tượng khác nhau về bản chất, chúng được phân định trên những cơ sở khác nhau và trong câu các bộ phận của mỗi cấu trúc cũng được phân bố khác nhau. "Một hiện tượng thường gặp là phần "cho sẵn" trùng với phần đề, phần "mới" trùng với phần thuyết trong cấu trúc đề - thuyết của câu, thực ra đó vẫn là hai cấu trúc tách biệt" [3,275].

Quan niệm về cấu trúc thông tin hay cấu trúc thông báo của câu tiếng Việt với trung tâm là tiêu điểm hay trọng tâm thông báo cũng là quan điểm của tác giả Nguyễn Hồng Cổn. Tác giả chỉ ra rằng "để nhận diện cấu trúc thông báo của một câu hay phân biệt một cấu trúc thông báo này với một cấu trúc thông báo khác theo chúng tôi chỉ cần căn cứ vào bộ phận quan yếu của nó là tiêu điểm thông báo: phân tích cấu trúc thông báo của câu thực chất là chỉ ra thành tố (ngữ pháp và/hoặc ngữ nghĩa) nào của câu đóng vai trò là tiêu điểm thông báo" [5,46]

Vấn đề cấu trúc thông tin: cấu trúc cho sẵn - mới (cũ - mới) được trình bày thống nhất trong các công trình nghiên cứu về ngữ dụng và ngữ pháp tiếng Việt như: Đỗ Hữu Châu ("Giản yếu về dụng học - Giáo trình Đại học từ xa, 1980"); Nguyễn Đức Dân ("Ngữ dụng học" tập 1, Nxb Giáo dục, 1998); Nguyễn Thiện Giáp ("Dụng học Việt ngữ", 2000); Nguyễn Thị Thuý (2001), Luận văn thạc sỹ "Cấu trúc thông báo của câu trả lời trực tiếp cho câu hỏi chính danh"; Bùi Minh Toán, Nguyễn Thị Lương (2007, "Giáo trình Ngữ pháp tiếng Việt"); Bùi Thị Bình

(2008, Luận văn thạc sỹ "Cấu trúc đề thuyết và cấu trúc tin trong ca dao tình nghĩa"), Nguyễn Thị Thu Dung (2009), Luận văn thạc sỹ "Cấu trúc tin và cấu trúc cú pháp trong câu đơn tiếng Việt qua một số truyện ngắn Nguyễn Công Hoan"; Khúc Bích Ngọc (2009), Luận văn thạc sỹ "Cấu trúc tin của cặp thoại hỏi - đáp (dựa trên ngữ liệu trong các sáng tác của một số tác giả nữ)"…

Điểm qua những công trình nghiên cứu trong nước có liên quan đến đề tài đã được công bố trong thời gian gần đây để có thể thấy những quan điểm về cấu trúc thông tin đã nêu trên là nền tảng ban đầu về mặt lý thuyết cho chúng tôi nghiên cứu về hiện tượng tiêu điểm hoá cấu trúc chủ - vị câu tiếng Việt.‌


1.2. Các khái niệm liên quan đến đề tài

1.2.1. Cấu trúc thông tin

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.

Cấu trúc thông tin được nhìn nhận và phân tích từ nhiều góc độ khác nhau. Trong luận văn này, khi xem xét hiện tượng tiêu điểm trong cấu trúc thông tin là đối tượng nghiên cứu chính, chúng tôi tiếp cận quan niệm coi cấu trúc thông tin không phải là sự đối lập giữa hai phần đề - thuyết hay chủ đề - tiêu điểm, nêu - báo, cũ - mới mà cấu trúc thông tin theo đánh giá của tác giả Nguyễn Hồng Cổn là "hình thức cú pháp bề mặt của một câu phản ánh những khác biệt về sự phân bố thông tin của câu trong các tình huống giao tiếp cụ thể biểu hiện qua sự khác biệt về vị thế thông tin của hai bộ phận là tiêu điểm thông tin và cơ sở thông tin" [7,27] sẽ được trình bày cụ thể ở mục sau. Chúng tôi phải nhấn mạnh thêm rằng dù trong cấu trúc thông tin có hai phần nhưng chỉ có một bộ phận mang trọng tâm thông báo được gọi là tiêu điểm thông tin (information focus). Vì vậy, phân tích cấu trúc thông tin chính là chỉ ra bộ phận nào trong câu chứa đựng thông tin nổi bật nhất. Hơn nữa, cấu trúc thông tin của một phát ngôn sẽ chịu sự quy định của người nói, ảnh hưởng của người nghe và có thể có cả hoàn cảnh giao tiếp. Chẳng hạn so sánh các tình huống sử dụng của câu "Bình làm vỡ lọ hoa" trong các ví dụ sau đây:

[1:1] 1) a. Có chuyện gì thế?

Bước đầu khảo sát hiện tượng tiêu điểm hóa cấu trúc chủ - vị của câu Tiếng Việt - 3

b. Bình làm vỡ lọ hoa.

2) a. Bình làm gì?

b. Bình làm vỡ lọ hoa.

3) a. Bình làm vỡ cái gì?

b. Bình làm vỡ lọ hoa.

4) a. Ai làm vỡ lọ hoa?

b. Bình làm vỡ lọ hoa.

Chúng ta thấy rõ ràng trong mỗi tình huống trên, dựa vào ngữ cảnh xung quanh xuất hiện trước nó, cùng một nội dung câu "Bình làm vỡ lọ hoa" có thể có những trọng tâm thông tin khác nhau.

Như vậy, yếu tố quan trọng nhất trong câu, quyết định cho một cấu trúc thông tin này khu biệt với một cấu trúc thông tin khác chính là trọng tâm thông tin hay gọi là tiêu điểm thông tin. Vì tiêu điểm thông tin liên quan chặt chẽ với cấu trúc thông tin và có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phân biệt các kiểu cấu trúc thông tin của câu nên chúng tôi sẽ đề cập ở mục sau.


1.2.2. Các thành tố của cấu trúc thông tin

1.2.2.1. Cơ sở thông tin

Mặc dù tồn tại nhiều quan niệm cũng như cách dùng thuật ngữ khác nhau về thành tố cấu trúc thông tin của câu như đã trình bày ở trên song các tác giả đều có chung ý kiến rằng trong cấu trúc thông tin, có một thành tố "không mang tin theo đúng nghĩa của từ tin". Thành tố đó được chúng tôi gọi là cơ sở thông tin (thuật ngữ theo PGS.Nguyễn Hồng Cổn) trong sự phân biệt với tiêu điểm thông tin và gọi tắt là cơ sở.

Phần cơ sở sẽ không mang lại những thông tin được coi là nổi bật trong ngữ cảnh hay trong tình huống giao tiếp cụ thể. Khi đề cập đến thành tố này, Halliday đã mô tả nó như một phần thông tin được người nói cho là có thể phục hồi được từ ngữ cảnh hay một phần văn bản đi trước. Ví dụ:

[1:2] a. Người ta vẫn chờ anh mong anh tha lỗi?

b. Chờ thì có. Nhưng mong tha lỗi thì không.

(CL:196)

Trong ví dụ, phần in đậm được người nói chọn làm điểm khởi đầu trong câu trả lời của mình đồng thời cũng là nội dung đã được đề cập đến trong câu hỏi đi trước. Nó chính là thông tin cơ sở của câu.

Ủng hộ ý kiến này, Chafe [47] nhấn mạnh thêm thông tin cơ sở phải được giới hạn trong phạm vi kiến thức mà người nói cho là ở trong trạng thái nhận thức của người nghe tại thời điểm phát ngôn hay nói cách khác, tại thời điểm phát ngôn

xuất hiện, cả người nói và người nghe cùng có chung một hiểu biết về thông tin đó; vì vậy mà ngữ "một cuốn truyện tranh mới" trong ví dụ sau:

[1:3] Mẹ ơi, có một cuốn truyện tranh mới trên bàn học của con!

theo quan điểm của Chafe và Halliday, có thể được xem là thông tin cơ sở nếu người nghe là người đã đặt cuốn truyện tranh lên bàn học.

Góp ý kiến vào vấn đề này, Prince (1981) [xem 46] đã đưa ra khái niệm về các thực thể thông tin trong diễn ngôn. Trong số những thực thể bà đưa ra có "thực thể được gợi lên trong văn bản". Đó là "thực thể đã được giới thiệu vào trong diễn ngôn và đang được đề cập đến trong lần sau". Những cơ sở thông tin được in đậm trong hai ví dụ dưới đây đã tồn tại ở phát ngôn trước và được gợi nhắc lại ở phát ngôn sau:

[1:4] a. Mẹ cháu được mạnh chứ?

b. Đội ơn bác, mẹ cháu nhờ giời vẫn mạnh.


[1:5] Bà ấy vẫn chạy. Bà ấy vẫn kêu. Bà ấy vẫn thở.

(KH1:19)


(NCH:117)

Với cách hiểu của Price, phần cơ sở thông tin được coi là "gợi lên" trong văn bản hiện dùng và do đó người nói tin là người nghe đã biết.

Herb Clark [xem 46] cho rằng cơ sở thông tin có những đặc điểm chung giống với đặc trưng của tiền giả định, đại ý: Đó phải là thông tin có thể xác định được… Người nghe hiểu rằng nó là thông tin mà người nói tin là cả hai đều đồng ý và rằng người nói đang khẳng định niềm tin của mình về thông tin đó.

Từ những nhận định trên, chúng tôi thấy rõ ràng phần cơ sở phải được xác định trước như một kiến thức nền - cái mà người nghe cần phải có khi tiếp nhận thông tin mà người nói cho là đã biết đối với người nghe đồng thời xét về mặt vai trò, nó không phải là phần quan yếu trong cấu trúc thông tin, không mang lại giá trị thông tin mà theo người nói đánh giá là đáng phải quan tâm. Nhưng thành tố này lại có chức năng "cung cấp các tiền giả định cho nghĩa hiển ngôn của câu, và trên cơ sở đó giúp xác lập tiêu điểm thông tin của câu" [7,59]. Hơn nữa, sự khác biệt giữa tiêu điểm và tiền giả định ở chỗ: "tiêu điểm là trung tâm phức hợp ngữ điệu - nội dung của câu còn tiền giả định là biểu thức thu được khi thay tiêu điểm bằng một biến nhất định" [5,45].

Tóm lại, vì không phải là đối tượng nghiên cứu chính trong đề tài này nên chúng tôi chỉ coi cơ sở thông tin - cái sẽ được triển khai và làm sáng tỏ thêm ở trong câu (bởi phần tiêu điểm) - là một trong hai bộ phận góp phần tạo nên cấu trúc thông tin của câu như một cái nền để làm nổi bật tiêu điểm thông tin - phần trọng tâm bàn luận trong đề tài này.

1.2.2.2. Tiêu điểm thông tin

Khi nói đến tiêu điểm, các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng nó là phần mang thông tin quan trọng nhất, phần trọng tâm thông báo của câu. Bàn về vấn đề này, S.Dik đã xác định tiêu điểm (Focus) là "các chức năng dụng pháp trình bày các thông báo tương đối quan trọng nhất hay nổi bật nhất đối với việc trao đổi thông tin giữa người nói và người nghe" (dẫn theo Cao Xuân Hạo 1991/2006:40]). Dik cũng lưu ý rằng không phải lúc nào thông tin tiêu điểm cũng là phần thông tin hoàn toàn mới. Phần thông tin tiêu điểm có thể được người nghe biết đến nhưng vẫn được đặt ở vị trí tiêu điểm do một sự tương phản nào đó.

Cùng chung quan điểm trên của Dik là Lambrecht khi ông khẳng định "Không có câu nào là không có cấu trúc thông báo" và "tất cả mọi câu đều phải có một tiêu điểm thông báo" đồng thời ông cũng lưu ý rằng tiêu điểm thông tin và thông tin mới không trùng khít lên nhau, vì thông tin mới của một câu không trùng với thành phần nào trong câu mà được đánh dấu bởi mối quan hệ dụng học giữa một sở chỉ và một mệnh đề. Ví dụ:

[1:6] a. Đêm qua cô út mơ thấy gì?

b. Đêm qua cô út mơ thấy cháy nhà.

(TNT:129)

"Cháy nhà" là tiêu điểm thông báo nhưng thông tin người nói muốn truyền đạt phải là toàn bộ mệnh đề: "Điều mà đêm qua cô út mơ thấy là cháy nhà".

Chúng tôi cũng tán thành với cách hiểu của Lambrecht về chức năng của việc đánh dấu tiêu điểm thông tin không phải để đánh dấu một thành tố là mới mà là để đánh dấu một mối quan hệ về tiêu điểm giữa một yếu tố của mệnh đề toàn bộ mệnh đề đó. Trong những ngữ liệu không tồn tại một mối quan hệ như thế điều đó có nghĩa là yếu tố tiêu điểm trùng với toàn bộ mệnh đề.

Ta có thể hình dung mô hình thông tin mới là tiêu điểm thông báo như sau:

(i) Câu trần thuật Tiền giả định: pX Khẳng định: X= X'

→ X' là thông tin mới và cũng là tiêu điểm thông báo.

(ii) Câu hỏi đóng:

Tiền giả định: pX

Khẳng định: Người nói muốn biết X' hay X'' (X= X' hay X'')

X' hay X'' trả lời cho điều mà người nghe muốn biết về sự lựa chọn của người nói. Có thể nói X' hay X'' là tiêu điểm thông báo và là thông tin mới tuy có thể có sở chỉ cũ.

(iii) Câu hỏi mở:

Tiền giả định: pX

Khẳng định: Người nói muốn biết X' (X= X')

X' trả lời cho câu hỏi hay tự hỏi ở trên, và là mục đích giao tiếp của người nói. X' là thông tin mới và là tiêu điểm thông báo [33,32].

Một số tác giả khác như Cao Xuân Hạo khẳng định "tiêu điểm là một từ hay một ngữ được nêu bật lên trong phần thông tin mới của câu bằng trọng âm cường điệu. Việc nhấn mạnh vào từ (ngữ) này nêu rõ sự đối lập giữa nó với những từ (ngữ) cùng hệ đối vị lẽ ra có thể đặt ở vị trí của nó trong câu" [17,77]. Cách hiểu như vậy cho thấy rằng tiêu điểm thông báo cũng có thể mang tính tương phản. Như ý kiến của Chafe về khái niệm "tương phản" (constrative) rằng giả sử trong đầu người nghe đã có một loạt hạn định các khả năng cho câu trả lời thì phần trả lời trên có thể được coi là tương phản; nó không là tương phản khi người nghe không có một giả thiết nào về các khả năng được lựa chọn. Ví dụ:

[1:7] a. Hồi cũng ngủ đây hả?

b. Vâng, tôi nằm chơi thôi.

(NMC1:27)

Trong ví dụ trên, thông tin về chuyện "nằm chơi thôi" là thông tin tiêu điểm vì đó chính là phần thông tin người nghe muốn biết (người nghe đã đặt ra trong câu hỏi). Phần thông tin "cũng ngủ đây" tương phản với thông tin "nằm chơi thôi" mà người hỏi chưa biết đến. Có thể nói phần thông tin "nằm chơi" tương phản với phần thông tin ở trong câu hỏi.

Trên cơ sở lí thuyết trên, PGS.Nguyễn Hồng Cổn đã chỉ ra rằng cấu trúc thông báo của một câu là một sự thể hiện bề mặt của cấu trúc ngữ pháp và/ hoặc cấu trúc ngữ nghĩa của câu ở một tình huống giao tiếp nhất định, qua đó cho phép "hiểu được các cấu trúc ngữ pháp và cấu trúc ngữ nghĩa của câu đã hành chức như thế nào trong từng hành động giao tiếp, tức là khi chúng được dùng để truyền tải các thực thực tế ngoại ngôn được tư duy phản ánh và xuất hiện dưới một dạng thức phối cảnh thoả đáng" [Dane, tr.277] [5,45])

Vẫn duy trì quan điểm trên, theo sự phân tích của tác giả, tiêu điểm thông báo của câu mang "thông tin mới" có hai khả năng xảy ra: hoặc đó là "cái mới" mà "người nói cho là không có trong ý thức của người nghe lúc sắp nói" hoặc đó là "cái mới" mà người nói chưa biết nhưng người nghe đã biết. Khả năng thứ nhất chỉ đúng với trường hợp câu tường thuật, mà chủ yếu là của các câu trả lời cho câu hỏi ai? gì? nào?... Khả năng thứ hai áp dụng cho trường hợp của các câu hỏi: người nói sử dụng những câu hỏi với các đại từ ai? gì? nào? thế nào?, …để được cung cấp thông tin. Nhìn nhận "tiêu điểm thông báo" từ một góc độ khái quát và toàn diện hơn trong mối quan hệ với "thông tin mới", đã chứng minh được rằng tiêu điểm thông báo không phải bao giờ cũng "mới" nhưng vẫn luôn có tư cách là bộ phận mang "thông báo quan trọng nhất" hay là "trọng tâm thông báo" của câu. Điều này được làm sáng tỏ khi quan niệm rằng "tiêu điểm của câu" là phần thông tin trong câu mà người nói giả định rằng nó không được người nói và người nghe cùng chia sẻ" [5,47]

Trong luận văn này, chúng tôi nghiêng theo ý kiến của tác giả Nguyễn Hồng Cổn trong sự chia sẻ quan niệm với Jackendoff rằng "tiêu điểm thông báo là phần duy nhất trong cấu trúc thông báo của câu cho thấy sự chênh lệch về thông tin giữa người nói và người nghe, xét theo sự đánh giá của người nói" [5,47].

Vì một phần nhỏ đối tượng nghiên cứu của luận văn là các diễn ngôn đơn thoại nên tiêu điểm thông báo của chúng có chức năng biểu hiện thông tin mà người nói đã biết và giả định là người nghe chưa biết ở thời điểm sắp nói. Sự chênh lệch thông tin này là lý do để người nói thực hiện các hành vi ngôn ngữ như kể hay trả lời (khẳng định hay phủ định). Trong việc tìm hiểu chức năng đánh dấu tiêu điểm thông tin của câu tiếng Việt, mục đích của chúng tôi là phân biệt các cấu trúc

có tiêu điểm trùng với một thành phần câu cụ thể (vị từ, tham tố) và các cấu trúc có tiêu điểm thông tin bao trùm toàn bộ câu (xin xem chương Ba).


1.2.3. Tiêu điểm hoá và phương thức tiêu điểm hoá

1.2.3.1. Quan niệm về tiêu điểm hoá

Tiêu điểm hoá được định nghĩa là "sự thể hiện thông tin tường thuật để chọn lọc phối cảnh" (The Cambridge companion to narrative) (Focalization is the submission of narrative to a perspective filter)

Trong các tài liệu ngôn ngữ học, các nhà nghiên cứu đều nhấn mạnh tiêu điểm hóa là một đặc điểm của cấu trúc diễn ngôn làm cho một bộ phận thông tin trở nên có ý nghĩa hơn hoặc nổi bật hơn so với một bộ phận thông tin khác.

Tiêu điểm hóa có thể được xem xét nhờ vào sự phân biệt giữa thông tin cận cảnh (foreground material) và thông tin hậu cảnh (background material). Thông tin cận cảnh đóng vai trò thiết yếu đối với sự tập trung tiêu điểm thông tin của câu. Còn thông tin hậu cảnh chỉ mang tính chất bổ sung hay phụ trợ. Chẳng hạn trong một phát ngôn "Lan mua hai cuốn sách", nếu tách khỏi ngữ cảnh cụ thể thì có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau, nghĩa là không xác định được thông tin tiêu điểm sẽ nằm ở chỗ nào. Từ câu này, một cách tất yếu logic có thể rút ra một số ý ngang hàng nhau, chúng được gọi là thông tin hậu cảnh như những ý dưới đây:

(i) Ai đó mua hai cuốn sách (ứng với từ Lan)

(ii) Lan mua cái gì đó (ứng với các ngữ hai cuốn sách)

(iii) Lan làm một việc gì đó (ứng với các ngữ mua hai cuốn sách)

Trong số các thông tin hậu cảnh trên có một ý được người nói chọn để gửi đến người nghe và làm nổi rõ nó lên để người nghe nhận biết nó, cho nên nó trở thành thông tin cận cảnh. Nếu tình huống phát ngôn không cho phép người nghe hiểu được người nói muốn nhấn mạnh vào ý nào trong số các thông tin hậu cảnh đó, thì người nghe phải tìm cách đánh dấu vào cái chỗ chứa điểm mà mình muốn nhấn mạnh. Làm như vậy được gọi là tạo tiêu điểm hóa thông tin cho phát ngôn. Halliday [51] cũng chia sẻ quan niệm của mình khi cho rằng thực hiện tiêu điểm hóa là "người nói đánh dấu ra một phần (cũng có thể là toàn bộ) của một khối thông tin mà người nói mong muốn phải được cắt nghĩa là có tính thông báo".

Theo chúng tôi, tiêu điểm hoá là một hiện tượng thuộc phạm vi ngữ dụng học, là một hoạt động có chủ ý của người nói sử dụng các phương tiện ngôn ngữ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 20/05/2022