thể quy về 2 phương thức chính: sự rút gọn (reduction) và sự tỉnh lược (hay còn gọi là phép tỉnh lược) (ellipsis)).
Tỉnh lược (ellipsis) là sự lược bỏ các yếu tố ít quan trọng hơn về mặt thông tin mà người đọc có thể hiểu được dựa vào mối liên hệ giữa các phát ngôn trong phạm vi của một ngữ cảnh cụ thể. Khi đó chúng ta sẽ có các phát ngôn không trọn vẹn được nhiều tác giả gọi tên là ngữ trực thuộc tỉnh lược. Để chỉ ra những nhân tố chi phối và quyết định sự tồn tại của ngữ đoạn được coi là sản phẩm của phép tỉnh lược trong một văn bản là việc không dễ dàng. Do đó, cũng theo tác giả Phạm Văn Tình, một số nhân tố chi phối đến phương thức tỉnh lược trên văn bản có thể: 1. Ngữ cảnh giao tiếp; 2. Mối liên hệ logíc ngữ nghĩa (mạch lạc trong văn bản); 3. Ý đồ và chiến lược giao tiếp [42,32]. Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy do vị trí của tiêu điểm thông tin trong câu mà phần bị lược bỏ rơi chủ yếu vào hai thành tố cú pháp là chủ ngữ và vị ngữ.
2.2.2.1. Phát ngôn tỉnh lược chủ ngữ
Ví dụ:
[2:14] a. Thế thì triết lí của người chồng mọc sừng là thế nào?
b. Ø Là nhắm mắt làm ngơ. Ø Là phải coi mình có lỗi, cho dẫu chưa thấy lỗi mình ở chỗ nào!
(VTP: 380)
Trong ngữ pháp tiếng Việt, về mặt ranh giới cú pháp, là là một thành tố cấu thành vị ngữ và trong thông báo nó bắt buộc phải có trước danh từ vị ngữ được người nói đưa ra để thể hiện ý đồ "đồng nhát hoá" của mình. Nên ở ví dụ trên, việc tách các phát ngôn sau thành phát ngôn biệt lập người nói không thể lược bỏ là. Chúng ta có thể viết: "triết lí của người chồng mọc sừng là nhắm mắt làm ngơ; là phải coi mình có lỗi, cho dẫu chưa thấy lỗi mình ở chỗ nào". Nhưng gộp tất cả vào một phát ngôn như vậy sẽ dễ nhầm lẫn, không rạch ròi về cấu trúc và quan trọng hơn là giảm hiệu lực thông báo. Việc tỉnh lược và lặp liên tục: "là+ danh ngữ" tạo ra mạch thông báo dồn dập mang tính liệt kê, nhấn mạnh, gây ấn tượng rõ nét đối với người đọc. Hệ từ là mở ra những đối tượng đồng nhất hoá quan hệ theo dụng ý của người nói, "người nói có quyền đồng nhất bất cứ cái gì mà họ muốn: Đồng nhất những cái đồng
nhất, đồng nhất những cái bao hàm nhau (…) và đồng nhất những cái khác biệt nhau hoàn toàn" [38,53].
2.2.2.2. Phát ngôn tỉnh lược vị ngữ
Ví dụ:
[2:15] Thằng Giỏi bước vào, hạ mũ. Sau nó, thằng Bốn Ø. Rồi thằng Vận Ø.
(NĐT:231)
Ngữ trực thuộc tỉnh lược vị ngữ (ở hai phát ngôn sau) trong ví dụ được khôi phục là: Sau nó, thằng Bốn bước vào, hạ mũ. Rồi thằng Vận bước vào, hạ mũ. Chúng ta có thể thấy các dạng lặp cấu trúc và từ vựng như vậy xảy ra rất thường xuyên và cũng là một thủ pháp của phép liên kết mang sắc thái tu từ. Nhưng tác giả Nguyễn Đức Thuận đã tìm cho mình một sự lựa chọn khác là chỉ sử dụng thủ pháp này cho phát ngôn trước, còn phát ngôn thứ hai và ba, vị ngữ của chúng bị tỉnh lược. Từ "rồi" trong ví dụ ngoài nhiệm vụ định vị chức năng cho danh ngữ "thằng Vận" còn có giá trị nhấn mạnh yếu tố chỉ thời gian. "Rồi" đảm nhiệm chức năng chuyển tiếp trong miêu tả sự tình. "Rồi B" có tiền giả định "Sự hiện diện của B là kế tiếp A". Và khi nghe phát ngôn "Rồi thằng Vận" người nghe sẽ có sự chờ đợi một thông tin mới, vừa có phần tương đồng với hai phát ngôn trước (cũng là một người trong số những người đang bước vào căn phòng của tù nhân, vừa có sự biến chuyển về sự tình: Cả ba thằng đều bước vào và rất có thể sau hành động hạ mũ chào là một hành động khác diễn ra tiếp theo (bắt trói lại, tra tấn, hỏi cung…).
2.2.2.3. Phát ngôn tỉnh lược chủ - vị
Ví dụ:
[2:16] Bà ấy thì lạch bạch như con vịt, kêu không ra tiếng, mỗi lúc một xa nó, xa nó đến sáu bảy mươi thước.
- Khổ thân tôi, trời đất ơi!
Đến ngã tư.
May quá. Một ông chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, nghe tiếng kêu, đâm bổ ở trong nhà ra, túm ngay được nó.
(NCH: 115)
Phát ngôn "Đến ngã tư" đứng riêng biệt ra hoàn toàn và có giá trị như một đoạn văn. Trong trường hợp này thì dụng ý của người viết rất rõ ràng. Phát ngôn có tác dụng như một ngữ đoạn chuyển tiếp:
Bà ấy lạch bach đuổi theo nó
Đến ngã tư
May quá, một ông… tóm ngay được nó
Hướng trực thuộc của phát ngôn "Đến ngã tư" là phát ngôn trên. Nhưng về ngữ nghĩa thì nó tiếp tục móc xích vào các phát ngôn sau. Chỉ khi ghép toàn bộ các đoạn này ta mới có thể hoàn thiện một chỉnh thể cú pháp có giá trị thông báo riêng (và bản thân nó sẽ góp phần cùng với các chỉnh thể khác làm nên một văn bản lớn).
Như vậy, hiện tượng tỉnh lược trong phạm vi văn bản (diễn ngôn) là một hiện tượng khá phổ biến. Nó phản ánh một trong những phương thức cơ bản của con người ở mọi ngôn ngữ trong quá trình hình thành và tạo dựng phát ngôn. Đặc biệt nó được sử dụng nhiều trong bối cảnh giao tiếp hội thoại nhất là trong việc tạo các tiêu điểm thông tin, nơi thể hiện rõ nhất những vấn đề cần nhấn mạnh của quá trình tương tác lời nói. Song không phải mô hình câu nào cũng có thể được sử dụng trong phép tỉnh lược để tạo nên hiện tượng tiêu điểm hoá cấu trúc nên sự tham gia của các kiểu nòng cốt câu sẽ không đồng đều về phạm vi và mức độ.
2.2.3. Tiêu điểm hóa bằng hư từ
2.2.3.1. Trợ từ tiêu điểm
Người nói sử dụng các hư từ và trợ từ tiêu điểm (focus particle) nhằm tạo ra các tiêu điểm thông tin trong phát ngôn. Qua khảo sát, chúng tôi thấy có những trợ từ tiêu điểm là: chính, ngay, cả, đến, đích, cũng, chỉ, vẫn, những, nào… Ví dụ:
[2:17] a. Anh là người vừa đánh nhau với hai đồng chí quân nhân kia?
b. Vâng! Tôi, chính tôi.
[2:18] Đích là vợ anh và gã tình nhân mà bà cụ nhà anh đã ngờ. [2:19] a. Thế kia ư, tài tử nhỉ, nhà cách đây xa không?
b. Ngay đầu lối rẽ vào ngõ nhà con, gần cái miếu ấy.
(CL: 186)
(TNĐS: 65)
(TNT: 457)
[2:20] a. Vậy nó nói những gì với mày cả buổi thế?
b. Chỉ nói em phải phấn đấu vào Đoàn.
(NK: 435)
Ở các ví dụ trên, chúng tôi thấy có những trợ từ được dùng để đánh dấu cho tiêu điểm chủ ngữ như chính, đích; đánh dấu tiêu điểm vị ngữ như chỉ; đánh dấu tiêu điểm chỉ địa điểm như ngay.
2.2.3.2. Tiểu từ
Một số công trình trước đây khi nghiên cứu về các phương tiện đánh dấu tiêu điểm các tác giả mới chỉ dừng ở việc khai thác các trợ từ tiêu điểm. Nhưng trong bài viết của mình về "Tiêu điểm tương phản trong câu tiếng Việt" tại Kỉ yếu Hội nghị quốc tế Ngôn ngữ học Liên Á 2004, PGS. Nguyễn Hồng Cổn đã chứng minh được ngoài trợ từ tiêu điểm thì còn có nhóm trợ từ tình thái hoặc các tổ hợp "trợ từ…tiểu từ" tham gia vào việc làm nổi bật cấu trúc thông tin. Theo quan điểm đó, dưới đây là một số ví dụ minh hoạ của chúng tôi cho các trường hợp tiêu điểm được đánh dấu bằng tiểu từ (đấy, thôi, chứ, cơ, kia, đấy chứ, thôi chứ…). Ví dụ:
[2:21] a. a. Mẹ gãi đầu cho con mau lên.
b. Ở đâu?
a. Ở đây này. Đây cơ.
[2:22] a. Kìa chị Xuyến xuống đây bao giờ thế?
b. Em vẫn ở với… chồng em đấy chứ.
[2:23] a. Sao chị biết "xúi quẩy"?
b. …Ngày nhỏ em đã ở dưới xuôi cơ mà!
(NMC2: 97)
(KH2: 193)
(NMC1: 139)
2.2.3.3. Tổ hợp trợ từ…tiểu từ
Cùng với tiểu từ, tổ hợp trợ từ… tiểu từ cũng có giá trị tạo tiêu điểm (chỉ…thôi, chính…đấy, cũng… chứ, có… thì có). Ví dụ:
[2:24] a. Sao người em nhiều vết tím thế này?
b. Úi, chẳng có gì đâu, chỉ là một sự va đập thôi…
(VPT: 74)
[2:25] a. Hôm nay có cơn gió lành nào đưa Huyền đến thăm gia đình tôi thế này?
b. Em có là ngọn gió độc thì có!
[2:26] a. Sân chim ở đâu?
b. Ở chỗ nó chứ còn đâu!
(TNH: 134)
(ĐG:221) Theo quan sát tư liệu, ngoài những phương tiện trên, chúng tôi còn nhận thấy những cách kết hợp từ vựng tạo thành những khuôn hình như: mới…mà, mới… mà đã, không những… mà còn… nhằm làm nổi bật giá trị thông tin. Ví dụ:
[2:27] a. Dì thấy mỏi chân chưa?
b. Không những mỏi mà còn mệt nữa.
(TNT: 428)
[2:28] Mới đó mà đã tới ngày hai mươi ba tháng Chạp đưa ông Táo về trời.
(TNH1:326)
[2:29] Không ngờ một người mơ mộng ái tình đến nỗi biếng lười cả học mà
nay bỗng trở nên một người ghét phụ nữ một cách cay độc.
(KH2:10)
2.2.4. Tiêu điểm hóa bằng thay đổi trật tự từ
Bên cạnh trọng âm và hư từ, trật tự từ cũng được đề cập rất nhiều như một phương tiện quan trọng trong việc đánh dấu tiêu điểm thông tin. Như đã nói ở trên, trong quá trình tham khảo các tài liệu chúng tôi thấy rằng những thuật ngữ mà tiếng Việt không có nên đã phải mượn từ tiếng Anh để có sự chuyển dịch tương ứng. Đó là hai khái niệm biểu thị cho sự thay đổi về vị trí của tiêu điểm thông tin: tiền đảo và hậu đảo.
2.2.4.1. Tiền đảo
2.2.4.1.1. Khái niệm. Tiền đảo là phép chuyển đổi trật tự bằng cách đảo thành tố có chức năng tiêu điểm từ vị trí cuối câu (không đánh dấu) lên vị trí đầu câu (đánh dấu) (dẫn theo Nguyễn Hồng Cổn [7,68]).
2.2.4.1.2. Phạm vi của tiền đảo
Như đã trình bày trong chương lý thuyết, cấu trúc tiền đảo không phải là một cấu trúc duy nhất dùng để nhấn mạnh về mặt thông tin song cấu trúc này ngoài một số tác dụng nhất định, nó còn có giá trị như một phương tiện nhằm để tạo tiêu điểm cho cấu trúc thông tin. Bởi vậy không phải mọi trường hợp của hiện tượng tiền đảo
đều được chúng tôi đưa vào xem xét trong luận văn này mà chúng tôi chỉ xét đến các cấu trúc tiền đảo có hiệu quả trong việc tạo nên tiêu điểm thông tin. Do đó, cấu trúc tiền đảo được chúng tôi xét tới phải có hai điều kiện:
(i) Điều kiện cần:
Đó phải là cấu trúc có tiêu điểm nằm trước động từ
(ii) Điều kiện đủ:
a. Cấu trúc đó phải có tính đánh dấu
b. Cấu trúc đó là kết quả của một quá trình chuyển vị trí một thành phần ra trước động từ
2.2.4.1.3. Các cấu trúc tiền đảo
Đảo bổ ngữ lên đầu câu
Ví dụ:
[2:30] Cái phim này các đồng chí Trung Quốc quay rồi.
(AĐ1: 95)
[2:31] Những ý thích nhỏ nhặt của cô, nó thực hiện với lòng tận tuỵ cầm thú.
(NHT:84)
Trong tiếng Việt, những trường hợp bổ ngữ chuyển vị trí lên đầu câu tương tự như hiện tượng tiền đảo được Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp [41,211] gọi là trường hợp bổ ngữ được "đài lên phía trước" hay "bổ ngữ đảo trí". Trong [2:30] chủ đề của phát ngôn nói về "cái phim này", tức cái phim mà trong những phát ngôn trước của văn bản đi trước đã nói về nó. Do đó, nó là phần tập trung tiêu điểm thông tin cần được nhấn mạnh.
Có những trường hợp phần được tiền đảo mang giá trị của cả chủ đề và tiêu điểm tương phản. Xét ví dụ:
[2:32] Thuốc, ông giáo ấy không hút; rượu, ông giáo ấy không uống.
(dẫn theo [41,199]) Trong ví dụ trên, "thuốc" và "rượu" có thể được coi là hai nội dung thông tin mới dẫn vào trong văn bản. Chúng được nêu ra trên cùng một bậc thang đánh giá về tính cách của "ông giáo ấy", và do đó, cũng được coi như là hai tiêu điểm tương phản với nhau. Theo chúng tôi trong trường hợp này, nội dung thông báo chính của toàn câu là về "ông giáo ấy" với hai thông tin phụ cho mỗi cú là "rượu" và "thuốc"
và đồng thời là tiêu điểm thông báo. Câu còn có hai tiêu điểm thông báo nằm ở vị trí thông thường - vị trí tiêu điểm ở cuối câu - là "không hút" và "không uống".
Ngoài ra, tiêu điểm thông báo đứng ở đầu câu trong tiếng Việt thường có liên quan đến tính phủ định của câu và được thể hiện như không, chưa, chẳng. Ví dụ:
[2:33] Không một bụi rậm nào họ không khua ngọn súng vào. Không một khe đá nào họ không lách lưỡi lê vào.
(NCH: 453)
Trong ví dụ trên, phần thông tin được cung cấp là những nơi mà quan lính của lý trưởng Tưởng đã từng khám xét đồng thời là phần được nhấn mạnh. Cách dùng từ "không một" góp phần nhấn mạnh vào nghĩa phủ định của phần thông tin làm tiêu điểm.
Như vậy phần bổ ngữ được đảo trong khuôn hình câu tiếng Việt có nét đặc trưng sau:
(i) Chúng ở vị trí đánh dấu so với vị trí không đánh dấu C - V - B
(ii) Chúng có thể là tiêu điểm
(iii) Chúng có thể là chủ đề tương phản đi kèm với phần TĐTP đứng cuối câu. (Những trường hợp có nét đặc trưng này, chúng tôi quan niệm rằng câu có hai tiêu điểm: một ở vị trí đầu câu vừa là tiêu điểm vừa là chủ đề và một vị trí ở cuối câu)
(iv) Phần tiền đảo mang tính chất của tiêu điểm có thể đi với một phương tiện từ vựng (ở đây là các từ chứa tính phủ định)
Cấu trúc Tiêu điểm + là/ mà + X
Trong cấu trúc trên, phần X là phần thông tin còn lại của mệnh đề dưới dạng một cú. Tiêu điểm là phần được nhận diện như thông tin quan trọng nhất, nó đứng trước hệ từ là hay hư từ mà và rất nhiều trường hợp đi trước nó là từ chính. Một vài ý kiến cho rằng khi có từ chính đi kèm giống như một cấu trúc hậu đảo vì toàn bộ câu được đặt sau từ này. Tuy nhiên, theo chúng tôi từ chính chỉ là một trợ từ nhấn mạnh để tạo tiêu điểm, không thể có được một cấu trúc hậu đảo do từ chính đứng ở đầu câu, nhất là khi chủ ngữ lại là thành phần ở vị trí tiêu điểm.
Ở trên đã nói, từ chính là một phương tiện từ vựng có giá trị tạo tiêu điểm. Cụ thể là từ chính đứng trước phần nào thì phần đó trở thành phần được nhấn mạnh. Ví dụ:
[2:34a] Chính hai cuốn sổ nhật ký là sự dối trá lớn nhất nàng muốn để lại cho thế gian.
(TNĐS: 124)
Phần được nhấn mạnh là "hai cuốn sổ nhật ký".
[2:34b] Hai cuốn sổ nhật ký chính là sự dối trá lớn nhất nàng muốn để lại cho thế gian.
Phần được nhấn mạnh là "sự dối trá lớn nhất nàng muốn để lại cho thế gian".
Chúng ta có thể sơ đồ hai ví dụ như sau: Với [2:34a]:
Chính hai cuốn sổ nhật ký | là sự dối trá lớn nhất nàng muốn để lại cho thế gian | |
CTCP | Chủ ngữ | Vị ngữ |
CTTT | Tiêu điểm | Cơ sở |
Có thể bạn quan tâm!
- Các Khái Niệm Liên Quan Đến Đề Tài
- Ứng Dụng Lý Thuyết Đánh Dấu Trong Ngữ Pháp Chức Năng
- Các Phương Thức Tiêu Điểm Hoá Cấu Trúc Chủ- Vị Câu Tiếng Việt
- Câu Trả Lời Gồm Phần Cơ Sở Và Tiêu Điểm
- Câu Hỏi Gồm Cả Phần Cơ Sở Và Tiêu Điểm Hỏi
- Tđtp Thay Thế: Đưa Ra Một Thông Tin Đúng Để Thay Thế Cho Thông Tin Sai Nêu Ở Tiêu Điểm Của Câu Trước Dựa Trên Sự Phán Đoán, Nhận Xét Của Người
Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.
Với [2:34b]:
Chính hai cuốn sổ nhật ký | là sự dối trá lớn nhất nàng muốn để lại cho thế gian | |
CTCP | Chủ ngữ | Vị ngữ |
CTTT | Cơ sở | Tiêu điểm |
2.2.4.2. Hậu đảo
2.2.4.2.1. Khái niệm
Hậu đảo là phép chuyển đổi trật tự bằng cách chuyển thành tố chức năng tiêu điểm từ vị trí đầu câu (không đánh dấu) xuống vị trí cuối câu (đánh dấu) (dẫn theo Nguyễn Hồng Cổn [7,68]).
2.2.4.2.2. Phạm vi hậu đảo
Từ khái niệm như trên, cấu trúc hậu đảo được chúng tôi xét đến trong luận văn này phải có điều kiện sau:
(i) Điều kiện cần:
Một cấu trúc có tiêu điểm nằm sau động từ