Các Đặc Điểm Cơ Bản Của Biện Pháp Bắt Buộc Chữa Bệnh Trong Luật Hình Sự

Tác giả Nguyễn Thị Ánh Hồng: “Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh là biện pháp buộc người bị mắc bệnh tâm thần đến mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi phải vào một cơ sở điều trị chuyên khoa đề bắt buộc chữa bệnh.” [24, tr.28].

Tác giả Đinh Văn Quế khi bình luận về biện pháp này thì cho rằng: “Bắt buộc chữa là một biện pháp buộc người phạm tội phải chữa bệnh trong một cơ sở chuyên khoa y tế do các cơ quan tiến hành tố tụng quyết định tùy theo giai đoạn tố tụng” [34, tr.221; 37, tr.292].

Hay“ Bắt buộc chữa bệnh là biện pháp tư pháp được BLHS quy định, do Tòa án hoặc Viện kiểm sát áp dụng đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội khi mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình” [ 46, tr.253].

Thiết nghĩ, các quan điểm trên về BPBBCB chưa bao quát hết nội hàm của BPBBCB. Bởi lẽ, trên thực tế BPBBCB không chỉ được áp dụng đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình mà BPBBCB còn có thể được áp dụng đối với cả người đang chấp hành hình phạt mà mắc bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi và người phạm tội trong khi có năng lực TNHS nhưng trước khi bị kết án đã mắc bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Hay nói cách khác, đối tượng áp dụng của BPBBCB theo quy định của BLHS hiện hành là người mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình trong hoặc sau khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội hoặc đang chấp hành hình phạt.

Trên cơ sở tham khảo các cơ sở lý luận và tài liệu pháp lý, cũng như nghiên cứu bản chất pháp lý của quy phạm PLHS Việt Nam hiện hành về BPBBCB quy định tại Điều 43 của BLHS năm 1999 cho phép đưa ra quan điểm về BPBBCB trong BLHS (nói chung) như sau:

Bắt buộc chữa bệnh là biện pháp cưỡng chế do Tòa án, Viện kiểm sát tùy

theo giai đoạn tố tụng áp dụng buộc người mà trong hoặc sau khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng trước khi xét xử hoặc đang chấp hành hình phạt mà mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình vào cơ sở điều trị chuyên khoa để chữa bệnh, nhằm xử lý tội phạm được triệt để, đồng thời loại bỏ những điều kiện có thể dẫn đến tội phạm mới trong tương lai do tình trạng bệnh của người bị áp dụng.

1.2.2. Các đặc điểm cơ bản của biện pháp bắt buộc chữa bệnh trong luật hình sự

Xuất phát từ khái niệm, bản chất pháp lý đã nêu về BPBBCB trong Bộ luật hình sự, chúng ta có thể nhận thấy có sáu đặc điểm chủ yếu như sau: a) BPBBCB là biện pháp cưỡng chế về hình sự được quy định trong BLHS; b) BPBBCB được áp dụng đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội; c) BPBBCB được áp dụng bởi các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền; d) BPBBCB không tạo ra án tích cho người bị áp dụng; đ) BPBBCB được áp dụng nhằm xử lý tội phạm được triệt để và toàn diện; e) BPBBCB là biện pháp cưỡng chế hình sự mang tính nhân đạo. Dưới đây chúng ta sẽ lần lượt xem xét nội dung của từng đặc điểm chủ yếu này:

a) BPBBCB là biện pháp cưỡng chế về hình sự được quy định trong BLHS

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

Trong xã hội luôn cần có sự cưỡng chế để điều chỉnh các quan hệ xã hội, đảm bảo điều kiện tồn tại của xã hội. Ở xã hội xã hội chủ nghĩa cưỡng chế là biện pháp có vai trò rất quan trọng để đảm bảo trật tự xã hội, bảo vệ giai cấp thống trị, đấu tranh phòng chống và ngăn ngừa tội phạm. Do tính chất đa dạng của hành vi nguy hiểm cho xã hội đòi hỏi cần phải có nhiều cách thức cưỡng chế phù hợp. Trong số các biện pháp cưỡng chế, BPBBCB là biện pháp cưỡng chế có hiệu quả. Tính chất cưỡng chế của BPBBCB thể hiện ở chỗ: thứ nhất, nó được áp dụng một cách bắt buộc, không tùy thuộc vào sự mong muốn của những người bị mắc bệnh hay của người thân thích hoặc người đại diện của họ; thứ hai, nó gắn với việc hạn chế tự do cá nhân, và thứ ba, nó được áp dụng khi có quyết định của Viện kiểm sát hoặc Tòa án tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng [54, tr.831].

Tuy nhiên, BPBBCB chỉ được áp dụng đối với những hành vi vi phạm pháp

Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong Luật hình sự Việt Nam trên cơ sở các số liệu địa bàn thành phố Hồ Chí Minh - 4

luật hình sự, những hành vi vi phạm các quy định pháp luật chuyên ngành khác như hành chính, dân sự… thì không thể bị áp dụng BPBBCB. Vì là biện pháp cưỡng chế hình sự nên BPBBCB cũng mang những nội dung cưỡng chế nhất định, tuy nhiên sự cưỡng chế ở BPBBCB không quá nghiêm khắc như hình phạt mà chỉ ở mức độ ngăn ngừa hành vi tiếp tục vi phạm của người bị áp dụng đồng thời còn mang tính chất nhân đạo. Vì trong các hình thức của TNHS thì hình phạt là hình thức cơ bản và quan trọng nhất nên tính cưỡng chế nghiêm khắc để tương xứng với tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội chủ yếu được thể hiện trong hình phạt, còn BPBBCB là để nhằm hỗ trợ hoặc trong những trường hợp đặc biệt dùng để thay thế cho hình phạt. Là một dạng biện pháp cưỡng chế hình sự nên nội dung của BPBBCB cũng mang tính tước bỏ hoặc hạn chế một số quyền nhất định của người bị áp dụng nhưng không nhằm gây đau đớn về thể xác hoặc hạ thấp danh dự nhân phẩm của người bị áp dụng. Bởi lẽ BPBBCB cũng như hình phạt và án tích luôn được xây dựng trên cơ sở nguyên tắc cơ bản của Luật hình sự như nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc nhân đạo, nguyên tắc dân chủ...

Để bảo vệ một cách vững chắc các quyền và tự do của con người bằng pháp luật hình sự chống lại sự tùy tiện, chuyên quyền trong nhận thức và hành vi của một bộ phận quan chức thoái hóa, biến chất và vụ lợi khi thực thi công vụ, BLHS năm 1999 bằng các quy phạm trong Phần chung về nhiệm vụ của BLHS (đoạn 2 Điều 1) đã ghi nhận tư tưởng “tội phạm và hình phạt đối với người phạm tội” phải được luật hình sự quy định [17, tr.264]. Hơn nữa, với tính chất là một trong các dạng trách nhiệm pháp lí nghiêm khắc nhất, việc áp dụng BPBBCB cũng đem lại những hậu quả pháp lí bất lợi cho người bị áp dụng, vì vậy để tránh việc áp dụng tùy tiện gây ảnh hưởng đến quyền lợi của những người tham gia tố tụng (người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội hoặc người bị kết án) BPBBCB phải được quy định trong BLHS để làm căn cứ pháp lí cho việc áp dụng và thi hành trên thực tế. Đây là cơ sở rất quan trọng để đảm bảo tính pháp chế, Luật hình sự ràng buộc các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ được áp dụng những biện pháp cưỡng chế nói chung và đối với BPBBCB nói riêng đã được quy định rõ trong BLHS. BPBBCB được quy định tại các Điều 43, 44 của BLHS.

b) BPBBCB được áp dụng đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội

BPBBCB áp dụng với người mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nên hành vi đó không cấu thành tội phạm nhưng không phải là không nguy hiểm cho xã hội. Thậm chí trong nhiều trường hợp hành vi của họ còn là những hành vi rất nguy hiểm hoặc đặc biệt nguy hiểm, chẳng hạn như đốt nhà làm chết nhiều người, giết chết con cái, giết người để ăn thịt,...việc họ không phải chịu hình phạt chẳng qua là vì không thể qui TNHS cho người không có điều kiện của chủ thể, không có lỗi (không có năng lực TNHS).

Khác với hình phạt chỉ được áp dụng đối với các hành vi là tội phạm, BPBBCB còn được áp dụng với cả những hành vi nguy hiểm cho xã hội. Có nghĩa là có hai nhóm đối tượng bị áp dụng BPBBCB. Thứ nhất, là người phạm tội, đây là người bị truy cứu TNHS trong vụ án và BPBBCB áp dụng đối với họ cũng là để giải quyết TNHS của người này. Thứ hai, là những người tuy có hành vi nguy hiểm nhất định nhưng hành vi đó của họ không đủ dấu hiệu để cấu thành tội phạm. Đây là trường hợp họ không có năng lực TNHS.

Trong thực tiễn thì người đang mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi (tức là không có năng lực chịu TNHS) vẫn có thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội hoặc sau khi thực hiện hành vi mới mắc bệnh, trường hợp này họ bị coi là tạm thời không có năng lực TNHS. Việc kết án cũng như áp dụng hình phạt với họ vừa trái với nguyên tắc nhân đạo được Luật hình sự Việt Nam thừa nhận, vừa không đạt được mục đích giáo dục, cải tạo người phạm tội, không đạt được hiệu quả của hình phạt, tuy nhiên để phòng ngừa và ngăn chặn họ tiếp tục thực hiện những hành vi nguy hiểm cho xã hội thì việc áp dụng BPBBCB là hết sức cần thiết và phù hợp, đồng thời còn thể hiện nguyên tắc nhân đạo sâu sắc.

c) BPBBCB được áp dụng bởi các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền

Với tính chất là một trong các dạng trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất, mặc dù không giống như hình phạt song việc áp dụng BPBBCB cũng đem

lại những hậu quả pháp lý bất lợi cho người bị áp dụng, do đó việc áp dụng biện pháp này trên thực tế đòi hỏi phải hạn chế tối đa sự tùy tiện, chính vì thế BLHS 1999 giao thẩm quyền áp dụng BPBBCB cho các cơ quan tư pháp hình sự, bao gồm 2 cơ quan là Tòa án, Viện kiểm sát tùy vào từng giai đoạn tố tụng cụ thể áp dụng theo một trình tự nhất định được quy định trong BLTTHS. Việc ràng buộc này là để đảm bảo nguyên tắc pháp chế, là cơ sở để đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Tuy nhiên, cũng giống như các biện pháp TNHS khác, BPBBCB chủ yếu được quyết định bởi Tòa án. Tòa án là cơ quan duy nhất nhân danh Nhà nước có quyền tuyên bố (kết án) một người nào đó là phạm tội hay không để rồi từ đó áp dụng biện pháp trách nhiệm phù hợp đối với họ. Tuy nhiên, không như các hình thức biểu hiện khác của TNHS như hình phạt, miễn hình phạt, án tích chỉ do Tòa án áp dụng; ngoài Tòa án ra thì Viện kiểm sát cũng có thẩm quyền áp dụng BPBBCB. Điều này có thể được xem là một đặc điểm riêng biệt giữa biện pháp tư pháp nói chung và BPBBCB nói riêng với các biện pháp TNHS khác. Điều 43 BLHS hiện hành quy định: “Đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh quy định tại khoản 1 Điều 13 của Bộ luật này, thì tùy theo giai đoạn tố tụng, Viện kiểm sát hoặc Tòa án căn cứ vào kết luận Hội đồng giám định pháp y, có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh…”. Quy định trên có nghĩa là nếu ở giai đoạn điều tra mà Viện kiểm sát phát hiện ra bị can thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội khi đang bị mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì Viện kiểm sát có quyền quyết định áp dụng BPBBCB đối với người đó. Tóm lại, tùy theo giai đoạn tố tụng BPBBCB có thể được áp dụng bởi Tòa án hoặc Viện kiểm sát.

d) BPBBCB không phải là hình phạt nên không tạo ra tình trạng án tích cho người bị áp dụng

Án tích là đặc điểm nhân thân bất lợi gây cho người mang án tích nhiều khó khăn trong hoạt động xã hội hằng ngày, án tích còn có thể là tình tiết có giá trị định tội, định khung hình phạt, hay là tình tiết tăng nặng nếu trong thời gian đang mang

án tích mà người đó lại gây ra hành vi nguy hiểm khác cho xã hội. Hơn nữa án tích chỉ được xóa khi có một trong những cơ sở được quy định trong BLHS (từ Điều 63 đến Điều 67). Tuy nhiên, BPBBCB không phải là hình phạt nên không gây ra tình trạng án tích cho người bị áp dụng. Bởi lẽ:

Một là, nếu BPBBCB được áp dụng đối với người đang chấp hành hình phạt mà bị bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì trong trường hợp này BPBBCB được áp dụng để hỗ trợ cho việc áp dụng hình phạt (chính) và chính hình phạt (chính) đã gây ra tình trạng án tích cho người bị áp dụng chứ hoàn toàn không phải do BPBBCB tạo ra.

Hai là, đối với trường hợp BPBBCB được áp dụng đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì không coi là tội phạm do đó không thể áp dụng hình phạt cho nên không thể đặt ra vấn đề án tích đối với họ.

Ba là, BPBBCB được áp dụng đối với người phạm tội trong khi có năng lực TNHS nhưng trước khi bị kết án đã mắc bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Trong trường hợp này BPBBCB được áp dụng là nhằm hỗ trợ giải quyết triệt để việc có thể truy cứu TNHS đối với người đó, bởi vì không thể đưa ra xét xử đối với một người mà người đó đang trong tình trạng không có năng lực TNHS và do đó vấn đề án tích cũng không thể đặt ra khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật về việc áp dụng hình phạt đối với người đó.

Nói chung, việc áp dụng BPBBCB (nếu người đó không bị áp dụng hình phạt) thì không bị coi là đã từng bị kết án và nếu họ có phạm một tội mới thì không coi là tái phạm. Đặc điểm này cho thấy xét về mức độ bất lợi cho người bị áp dụng thì BPBBCB rõ ràng thấp hơn hình phạt.

đ) BPBBCB được áp dụng nhằm xử lý tội phạm được triệt để và toàn diện

Chính sách hình sự của Nhà nước ta là huy động tối đa , đồng bộ các biện pháp, các phương tiện để giải quyết triệt để những vấn đề phát sinh trong vụ án hình sự. Tuy nhiên, hình phạt với tư cách là phương tiện chính lại không thể giải quyết

hết những khía cạnh pháp lý nảy sinh trong vụ án hình sự, đặc biệt là trong những trường hợp người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình; hoặc người phạm tội trong khi có năng lực TNHS nhưng trước khi bị kết án đã mắc bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình; hoặc trong trường hợp người đang chấp hành hình phạt mà bị bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì BPBBCB được áp dụng để giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình tố tụng cũng như trong thời gian đang chấp hành hình phạt, nhằm thay thế hoặc hỗ trợ cho hình phạt có thể đạt được mục đích và hiệu quả tối đa là không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giúp cho họ trở thành những người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới, đồng thời giáo dục người khác tuân thủ pháp luật. Nói một cách khác việc quy định và áp dụng BPBBCB nhằm góp phần giải quyết một cách trọn vẹn, triệt để hơn các vấn đề phát sinh trong vụ án hình sự bao gồm cả vấn đề TNHS của người phạm tội và các vấn đề khác như lợi ích của Nhà nước, của xã hội và cả quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Việc quy định và áp dụng BPBBCB trong pháp luật hình sự thể hiện phương châm đúng đắn trong việc thực hiện chính sách hình sự là sử dụng tối đa, đồng bộ mọi biện pháp để nhằm răn đe, giáo dục người phạm tội và phòng ngừa tội phạm, góp phần nâng cao hiệu quả của sự tác động hình sự đối với tội phạm và hình phạt không phải là phương tiện, công cụ duy nhất trong công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

e) BPBBCB là biện pháp cưỡng chế hình sự mang tính nhân đạo

Xuất phát từ truyền thống của dân tộc trong cuộc sống cần phải có đạo lí, cần xem con người là vốn quý của xã hội. Điều 3 BLHS quy định: “… khoan hồng đối với người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác người đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra…”. Trong pháp luật phong kiến hình phạt được áp dụng đối với người phạm tội rất dã man, tàn khốc cốt yếu nhằm để trừng phạt và trả thù người phạm tội còn pháp luật hình sự nước ta

hiện nay nêu rõ các biện pháp tác động cưỡng chế hình sự đến người phạm tội không nhằm mục đích trả thù mà để cải tạo, giáo dục người phạm tội, bảo đảm trật tự xã hội, do đó pháp luật hình sự nước ta xem nhân đạo là một nguyên tắc. Và việc áp dụng BPBBCB thể hiện rõ nét nhất mục đích nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam. Áp dụng BPBBCB để không buộc người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình phải chịu sự trừng trị của pháp luật hình sự (bị kết tội, chịu hình phạt,…); cho dù hành vi mà họ thực hiện có nguy hiểm cho xã hội đến đâu đi nữa nhưng họ vẫn được thừa nhận là không có lỗi và không thể bị coi là tội phạm do đó không thể bị áp dụng hình phạt. Tuy nhiên, nếu để họ tiếp tục sống ngoài xã hội với tình trạng bệnh tật như vậy vừa không tốt cho chính bản thân họ, vừa là nguy cơ đe dọa đối với người khác. Việc bắt buộc họ phải chữa bệnh ở cơ sở chuyên khoa là sự nhân đạo với chính bản thân người bị áp dụng, giúp họ hết bệnh để trở lại với cuộc sống bình thường; vừa là sự nhân đạo đối với người khác, với xã hội, giúp họ loại bỏ một nguy cơ có thể bị xâm hại.‌

1.3. Sơ lược các quy định về biện pháp bắt buộc chữa bệnh trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam từ sau Cách mạng tháng 8/1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 của nước ta

1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8/1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985

Trong lịch sử pháp luật nước ta mãi cho đến khi ban hành BLHS năm 1985 thì thuật ngữ: “Các biện pháp tư pháp” nói chung và BPBBCB nói riêng mới lần đầu tiên được chính thức ghi nhận. Pháp luật hình sự Việt Nam ở khía cạnh nào cũng luôn thể hiện tính kế thừa, và sự tiếp thu mang tính có chọn lọc, điều đó có nghĩa là các quy định của Luật hình sự hiện hành nói chung và BPBBCB nói riêng cũng ít nhiều mang tính chất kế thừa có chọn lọc các quy định của pháp luật trước đó.

Trong Luật hình sự năm 1972 của chế độ Việt Nam Cộng hòa trong thời kỳ này có quy định “nguyên cớ vô trách nhiệm” tức là trường hợp không phải chịu TNHS khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội: “Can phạm chỉ có trách nhiệm

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 01/11/2023