Thời gian bắt buộc chữa bệnh được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù [22].
Bắt buộc chữa bệnh được áp dụng cho các trường hợp người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong tình trạng mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Việc áp dụng biện pháp tư pháp này được quy định tại Điều 43, 44 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung).
Việc áp dụng biện pháp tư pháp này nhằm phòng ngừa khả năng gây thiệt hại cho trật tự, an toàn xã hội của người mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác gây rối loạn hoạt động tâm thần. Bên cạnh đó, việc áp dụng Bắt buộc chữa bệnh còn mang tính nhân đạo, bởi lẽ thay vì áp dụng hình phạt đối với những người đó thì Nhà nước quy định các biện pháp tư pháp hình sự, cụ thể là Bắt buộc chữa bệnh cho phép những người đó được chữa bệnh tại cơ sở điều trị chuyên khoa có thể giao cho gia đình hoặc người giám hộ trông nom dưới sự giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp này.
Bắt buộc chữa bệnh được áp dụng bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cụ thể là Viện kiểm sát hoặc Tòa án áp dụng bắt buộc chữa bệnh với người phạm tội căn cứ vào quyết định của Hội đồng giám định y khoa. Thẩm quyền áp dụng tùy vào từng giai đoạn tố tụng thuộc về Viện kiểm sát (giai đoạn điều tra, truy tố) hoặc Tòa án (giai đoạn xét xử). Cụ thể việc áp dụng được quy định tại Điều 43, 44 Bộ luật Hình sự:
- Áp dụng đối với người trong tình trạng mất năng lực trách nhiệm hình sự: Đang mắc phải một bệnh tâm thần, hoặc một bệnh lý khác mà không có khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình. Người bị mất năng lực trách nhiệm hình sự trong khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đó; nhưng để tránh trường hợp người đó tiếp tục phạm tội thì Nhà nước quy định việc áp dụng biện pháp
bắt buộc chữa bệnh. Khi có căn cứ cho rằng người đó bị mất năng lực trách nhiệm hình sự thì tùy vào giai đoạn tố tụng mà Viện kiểm sát, Tòa án căn cứ kết luận Hội đồng giám định pháp y, có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa (nếu cần thiết) hoặc giao cho gia đình, người giám hộ trông nom dưới sự giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc áp dụng này tùy thuộc vào từng giai đoạn, cụ thể là ở giai đoạn điều tra, truy tố, thì Viện kiểm sát trên cơ sở kết luận giám định (có thể do Cơ quan điều tra đề nghị trưng cầu giám định khi điều tra) có thể ra quyết định áp dụng; còn đối với trường hợp vụ án được đưa ra xét xử hoặc đang được thi hành án thì Tòa án là cơ quan có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp này.
2.2.2. Các biện pháp tư pháp quy định riêng cho người chưa thành niên phạm tội
Các biện pháp tư pháp hình sự (riêng) áp dụng với người chưa thành niên phạm tội là những biện pháp cưỡng chế về hình sự của Nhà nước ít nghiêm khắc hơn hình phạt, do Bộ luật Hình sự quy định và được Tòa án áp dụng khi xét xử nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt, căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người chưa thành niên và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.
Bên cạnh việc áp dụng những hình phạt, tùy theo từng trường hợp cụ thể cần phải áp dụng biện pháp thay thế cho hình phạt mà vẫn đảm bảo yêu cầu công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm; Tòa án áp dụng các biện pháp tư pháp riêng, hoặc cơ quan tiến hành tố tụng hình sự áp dụng các biện pháp tư pháp chung với người chưa thành niên phạm tội.
Các biện pháp tư pháp hình sự riêng chỉ áp dụng với những người chưa thành niên phạm tội, do đó chỉ ghi nhận trong hai biện pháp tư pháp là:
Có thể bạn quan tâm!
- Vai Trò Và Mục Đích Của Của Biện Pháp Tư Pháp Hình Sự
- Phân Biệt Biện Pháp Tư Pháp Hình Sự Với Biện Pháp Cưỡng Chế Hành Chính
- Các Biện Pháp Tư Pháp Trong Bộ Luật Hình Sự Năm 1999
- Những Tồn Tại, Hạn Chế Trong Thực Tiễn Áp Dụng Các Quy Định Về Biện Pháp Tư Pháp
- Nhu Cầu Và Quan Điểm Hoàn Thiện Các Quy Định Về Biện Pháp Tư Pháp Trong Luật Hình Sự Việt Nam Và Nâng Cao Hiệu Quả Áp Dụng
- Các Giải Pháp Khác Nhằm Nâng Cao Hiệu Quả Áp Dụng Các Quy Định Về Biện Pháp Tư Pháp Trong Luật Hình Sự Việt Nam
Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.
+ Giáo dục tại xã, phường, thị trấn;
+ Đưa vào trường giáo dưỡng.
Nếu như các biện pháp tư pháp chung, có mục đích nhằm hỗ trợ hoặc thay thế cho hình phạt; thì các biện pháp tư pháp riêng áp dụng với người chưa thành niên phạm tội lại có mục đích chính là thay thế cho hình phạt; nhằm "giáo dục, cải tạo người chưa thành niên phạm tội và phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên thực hiện.
Người chưa thành niên là những người chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ về nhân cách, chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân. Pháp luật ở mỗi quốc gia quy định độ tuổi cụ thể của người chưa thành niên.
Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20/11/1989 có ghi: "Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn".
Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất trong Hiến pháp năm 1992, Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Tất cả các văn bản pháp luật đó đều quy định tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi và quy định riêng những chế định pháp luật đối với người chưa thành niên trong từng lĩnh vực cụ thể.
Khái niệm người chưa thành niên khác với khái niệm trẻ em. Theo Điều 1 Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004: "Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi".
Tóm lại, khái niệm người chưa thành niên được xây dựng dựa trên sự phát triển về mặt thể chất và tinh thần của con người và được cụ thể hóa bằng giới hạn độ tuổi trong các văn bản pháp luật của từng quốc gia. Theo đó, người ta quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể của người chưa thành niên.
Như vậy, có thể khái niệm: Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên.
Người chưa thành niên phạm tội là một hiện tượng xã hội đang được xã hội rất quan tâm hiện nay, do người chưa thành niên là đối tượng đặc biệt. Việc đưa vụ án hình sự có người chưa thành niên ra xét xử, phải đảm bảo được các nguyên tắc cơ bản của pháp luật hình sự, cũng như khi quyết định hình phạt phải trên cơ sở của đường lối, chính sách hình sự xử lý người chưa thành niên phạm tội. Do đó, mặc dù việc áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự thể hiện tính nhân đạo đối với người chưa thành niên phạm tội, song việc áp dụng này vẫn phải đảm bảo các quyền lợi như đối với các công dân bình thường, và đáp ứng các điều kiện áp dụng do pháp luật quy định.
* Giáo dục tại xã, phường, thị trấn
Giáo dục tại xã, phường, thị trấn là biện pháp tư pháp được áp dụng với người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng trong thời hạn một năm đến hai năm. Biện pháp này được quy định tại khoản 2, Điều 70 Bộ luật Hình sự 1999 như sau:
Điều 70: Các biện pháp tư pháp áp dụng với người chưa thành niên phạm tội:
2. Tòa án có thể áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn từ một năm đến hai năm đối với người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng.
Người được giáo dục tại xã, phường, thị trấn phải chấp hành đầy đủ những nghĩa vụ về học tập, lao động, tuân theo pháp luật dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền xã, phường, thị trấn và tổ chức xã hội được Tòa án giao trách nhiệm [20].
Điều kiện áp dụng: Giáo dục tại xã, phường, thị trấn là biện pháp tư pháp thay thế cho hình phạt được áp dụng đới với người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng. Như vậy, điều kiện để áp dụng biện pháp tư pháp này là buộc phải căn cứ vào tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, cũng như các điều kiện khác: Có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhân thân tốt, người chưa thành niên phạm tội đã có thái độ ăn năn, hối cải sau khi phạm tội, có nơi ở ổn định và môi trường sống của họ thuận lợi cho việc giáo dục và cải tạo.
Thời hạn áp dụng: Việc áp dụng biện pháp tư pháp này là từ một đến hai năm do Tòa án xem xét quyết định. Trong thời hạn này, người chưa thành niên bị kết án không bị cách ky khỏi cuộc sống xã hội, nhưng người bị áp dụng biện pháp này buộc phải chấp hành đầy đủ những nghĩa vụ, cũng như được hưởng những quyền lợi được quy định tại Nghị định 59/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 của Chính phủ quy định việc thi hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
Việc áp dụng này nhằm tạo điều kiện cho người chưa thành niên bị kết án được lao động, học tập tại cộng đồng và chứng tỏ sự hối cải của mình ngay trong môi trường xã hội bình thường, dưới sự giám sát của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc tổ chức xã hội và gia đình.
* Đưa vào trường giáo dưỡng
Đưa vào trường giáo dưỡng là biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên nếu xét thấy cần phải có kỷ luật chặt chẽ và cần phải cách ly họ khỏi môi trường xã hội để giáo dục và cải tạo họ thành công dân có ích cho xã hội. Biện pháp này được quy định tại khoản 3, Điều 70 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định:
Điều 70: Các biện pháp tư pháp áp dụng với người chưa thành niên phạm tội:
3. Tòa án có thể áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng từ một năm đến hai năm đối với người chưa thành niên phạm tội, nếu thấy do tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, do nhân thân và môi trường sống của người đó mà cần đưa người đó vào một tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ [20].
Đưa vào trường giáo dưỡng là biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội buộc phải cách ly họ khỏi gia đình, hoặc môi trường sống hiện tạo để vào một tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ và nghiêm ngặt.
Đây là biện pháp tư pháp dùng thay thế hình phạt, có tính nghiêm khắc hơn so với biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, nhằm hạn chế tự do và cách ly người chưa thành niên bị kết án khỏi môi trường sống bình thường của họ, đưa họ vào một tổ chức giáo dục riêng có kỷ luật chặt chẽ, chấp hành đầy đủ nội quy, nề nếp, được sống học tập và rèn luyện dưới sự giám sát chặt chẽ của tổ chức chuyên trách là trường giáo dưỡng trong một thời gian nhất định.
Điều kiện áp dụng: Biện pháp tư pháp này mang tính nghiêm khắc hơn so với biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; do đó để áp dụng biện pháp này Tòa án cần cân nhắc một cách kỹ càng. Việc áp dụng biện pháp này chỉ với đối tượng là người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội - điều này phần nào cũng có ảnh hưởng đến các yếu tố tinh thần của họ. Do đó, việc áp dụng cần đáp ứng được các điều kiện sau:
+ Tòa án cần căn cứ vào tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội do người chưa thành niên thực hiện. Bộ luật Hình sự năm 1999 không quy định cụ thể người đó phạm tội gì, do đó, Tòa án cần xem xét trên cơ sở các yếu tố: Quan hệ xã hội bị xâm hại (đối tượng), hình thức lỗi (vô ý hay cố ý).
+ Tòa án căn cứ vào nhân thành người chưa thành niên phạm tội. Qua việc xem xét và đánh giá tổng thể các yếu tố về nhân thân như: Hoàn cảnh gia đình, lý lịch bản thân, độ tuổi, giới tính, tiền án - tiền sự trước đó... có thể phản ánh được các đặc điểm, đặc tính xã hội của chính người này; đồng thời phản ánh được khả năng cải tạo, giáo dục họ trong môi trường sống.
+ Tòa án căn cứ vào môi trường sống của người chưa thành niên. Môi trường sống là nơi người đó sinh sống, học tập và lao động. Ở một môi trường tốt thì người đó có điều kiện để phát triển bản thân, cũng như trở thành một người có ích, còn nếu như sống trong điều kiện môi trường không tốt, có thể gây ảnh hưởng xấu đến người chưa thành niên, khiến họ dễ mắc phải những thói hư tật xấu, bị bạn bè lôi kéo, rủ rê, dễ rơi vào các tệ nạn xã hội... Môi trường xấu có thể khiến người chưa thành niên có những nhận thức lệch lạc, hành động thiếu suy nghĩ hướng đến việc chống đối xã hội. Do đó, việc chấp nhận để người chưa thành niên phạm tội tiếp tục được sống, giáo dục và cải tạo trong môi trường đó là một lựa chọn không đúng đắn, việc cách ly họ khỏi môi trường xấu đó là hết sức cần thiết.
Như vậy, có thể thấy những người chưa thành niên có hành vi phạm tội có tính chất nghiêm trọng, nhân thân xấu, không có nơi cư trú nhất định (sống lang thang, bụi đời...) [14, tr. 399].
Thời hạn áp dụng: Đối với những trường hợp thỏa mãn các điều kiện nêu trên, Tòa án quyết định thời gian đưa vào trường giáo dưỡng từ một đến hai năm.
Trong thời hạn này, người bị kết án buộc phải thực hiện các nội quy, quy chế của trường giáo dưỡng, sống, học tập và lao động theo quy định. Tính từ ngày người chưa thành niên được đưa vào trường giáo dưỡng, nếu họ đã chấp hành được một nửa thời hạn ở trường giáo dưỡng do Tòa án quyết định, đồng thời, có nhiều tiến bộ trong quá trình chấp hành như: Thực hiện tốt các
nội quy, quy định của trường giáo dưỡng; tích cực rèn luyện và đạt kết quả tốt, thể hiện được sự ăn năn, hối cải do những hành vi nguy hiểm cho xã hội do mình gây ra... thì người phụ trách của nhà trường có thể đề nghị Tòa án chấm dứt thời hạn ở trường giáo dưỡng trước thời hạn.
2.3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP; NHỮNG TỒN TẠI, HẠN CHẾ TRONG THỰC TIỄN ÁP DỤNG CHẾ ĐỊNH CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP VÀ NHỮNG NGUYÊN NHÂN CỦA NÓ
2.3.1. Thực tiễn áp dụng các biện pháp tư pháp
Việc áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự đã có từ lâu, ngay khi Bộ luật Hình sự năm 1985 được ban hành, và đến nay, với pháp luật thực định (Bộ luật Hình sự 1999, sửa đổi bổ sung 2009) thì những quy định này càng được cụ thể rõ ràng hơn, được áp dụng vào thực tế nhiều hơn. Trong những vụ án hình sự gần đây (500 vụ án hình sự được tính từ năm 2005) thì tỷ lệ áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự khá cao (chiếm đến 80%). Hầu hết các vụ án hình sự đều được áp dụng biện pháp tư pháp.
Thực tiễn việc áp dụng các biện pháp tư pháp cụ thể là:
Với biện pháp "Trả lại vật, tiền do phạm tội mà có" được đánh giá là biện pháp tư pháp được áp dụng rộng rãi, chiếm tỷ lệ lớn trong các vụ án hình sự có liên quan đến tài sản. Trên cơ sở khảo sát 500 vụ án hình sự từ năm 2005 đến này, thì việc áp dụng biện pháp này chiếm đến 60% tổng số vụ án.
Hầu hết các vụ án có liên quan đến tài sản, người bị hại bị chiếm đoạt tài sản một cách bất hợp pháp, thì sẽ áp dụng biện pháp tư pháp hình sự "Trả lại vật tiền" cho người bị thiệt hại về tài sản. Mặt khác, việc áp dụng trả lại tài sản cho người bị thiệt hại về tài sản hoặc người quản lý tài sản hợp pháp là việc rất cần thiết, và đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho người dân.