Khái Niệm, Đặc Điểm, Vai Trò Của Biện Pháp Tư Pháp "trả Lại Tài Sản, Sửa Chữa Hoặc Bồi Thường Thiệt Hại"

Biện pháp tư pháp là biện pháp cưỡng chế về hình sự của Nhà nước ít nghiêm khắc hơn hình phạt do pháp luật hình sự quy định và được cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng cụ thể áp dụng đối với người phạm tội nhằm hạn chế quyền, tự do của người đó hoặc hỗ trợ hay thay thế cho hình phạt [7, tr. 679].

Trong khoa học luật hình sự nước ngoài, biện pháp cưỡng chế hình sự khác được hiểu là "Biện pháp tước hoặc hạn chế tự do hoặc quyền, hoặc là biện pháp về tài sản, chủ yếu có mục đích ngăn ngừa việc thực hiện tội phạm mới" hoặc là "những biện pháp cưỡng chế không có màu sắc luân lý, áp dụng với các cá nhân nguy hiểm cho trật tự xã hội để phòng ngừa các tội phạm mà tình trạng của họ có thể gây ra". Trong các định nghĩa khoa học về các biện pháp cưỡng chế hình sự khác nêu trên, các học giả đã dựa trên bản chất, đặc điểm và chức năng của các biện pháp này tuy nhiên chưa khái quát hết các đặc điểm chủ yếu của loại biện pháp này như về chủ thể áp dụng, hiệu lực pháp luật và hiệu lực thi hành của nó [40, tr. 87].

Trên cơ sở nghiên cứu phân tích, so sánh, tổng hợp các định nghĩa của các nhà khoa học trong và ngoài nước, có thể chỉ ra năm đặc điểm cơ bản của biện pháp tư pháp như sau:

Thứ nhất, biện pháp tư pháp là biện pháp cưỡng chế về hình sự của Nhà nước ít nghiêm khắc hơn hình phạt.

"Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội" [27, Điều 26] do Tòa án quyết định, chính vì vậy khi bị áp dụng hình phạt sẽ để lại án tích đối với người bị tuyên phạt trong khi đó hậu quả pháp lý đối với người bị áp dụng biện pháp tư pháp không bị coi là có án tích. Mặt khác, tính ít nghiêm khắc hơn hình phạt của biện pháp tư pháp còn thể hiện ở mục đích của hai loại biện pháp cưỡng chế hình sự này. Nếu như hình phạt nhằm trừng trị

người phạm tội, có thể tước đoạt quyền, tự do thậm chí là tính mạng của người bị kết án thì các biện pháp tư pháp chỉ có thể hạn chế một số quyền nhân thân của người phạm tội thậm chí một số biện pháp tư pháp xét về mặt xã hội còn mang lại lợi ích cho người phạm tội. Ví dụ: trường hợp áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng điều khiển hành vi của mình; hoặc người phạm tội trước khi bị kết án hoặc đang trong thời gian chấp hành hình phạt mà bị bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình thì biện pháp tư pháp có ý nghĩa nhân đạo giúp người này trở lại trạng thái của người bình thường.

Thứ hai, biện pháp tư pháp được áp dụng cho chính cá nhân cụ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Trong những trường hợp người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng chưa đến mức phải truy cứu TNHS hoặc được miễn truy cứu TNHS thì người đó vẫn có thể phải bị áp dụng biện pháp tư pháp. Ví dụ: Giá trị tài sản trộm cắp dưới 2 triệu đồng và người thực hiện chưa có tiền án, tiền sự thì người đó không bị truy cứu TNHS theo khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999 nhưng tài sản thu giữ được sẽ được áp dụng biện pháp tư pháp trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, nếu có hư hỏng có thể sẽ phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại.

Thứ ba, biện pháp tư pháp nhằm hạn chế quyền, tự do của người thực hiện tội phạm, nhằm hỗ trợ hoặc thay thế cho hình phạt và nhằm loại bỏ những điều kiện phạm tội, ngăn ngừa chủ thể bị áp dụng phạm tội trong tương lai.

Xét về bản chất, các biện pháp tư pháp hình sự không phải là hình phạt nhưng cũng là những biện pháp cưỡng chế của Nhà nước nhằm tăng hiệu quả trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Vì vậy, các biện pháp tư pháp khi áp dụng cùng với hình phạt thì chúng có khả năng tác động hỗ trợ cho việc áp dụng và thi hành hình phạt đạt hiệu quả cao hơn hoặc có thể thay thế cho hình phạt đối với những trường hợp không áp dụng hình phạt (như miễn hình phạt, miễn TNHS).

Ngoài ra, do tính chất được áp dụng trong mọi giai đoạn tố tụng nên ngay cả trước khi Tòa án áp dụng hình phạt thì những điều kiện phạm tội cũng sẽ được biện pháp tư pháp loại bỏ cùng với đó sẽ phòng ngừa chủ thể bị áp dụng phạm tội trong tương lai (ví dụ: việc áp dụng biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm đối với tiền, tài sản và các công cụ phạm tội trong vụ án bắt quả tang nhiều đối tượng đánh bạc sẽ làm chấm dứt các điều kiện phạm tội đang tồn tại và có giá trị phòng ngừa các đối tượng phạm tội tiếp).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

Thứ tư, biện pháp tư pháp được áp dụng đối với tất cả các giai đoạn tố tụng vì vậy chủ thể áp dụng biện pháp tư pháp rộng hơn chủ thể áp dụng hình phạt. Với tính chất đặc biệt của mình, hình phạt chỉ có thể do Tòa án áp dụng thông qua bản án. Trong khi đó, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án đều có thẩm quyền áp dụng biện pháp tư pháp khi có căn cứ đối với người phạm tội nói chung (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và cả người bị kết án), riêng đối với biện pháp tư pháp thay thế cho hình phạt chỉ có thể do Tòa án áp dụng đối với người bị kết án.

Thứ năm, biện pháp tư pháp được quy định trong BLHS, phải được cơ quan tư pháp có thẩm quyền áp dụng theo một trình tự thủ tục chặt chẽ do luật tố tụng hình sự quy định và phải tuân theo nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc công bằng, tôn trọng danh dự, nhân phẩm của con người.

Biện pháp tư pháp - Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại theo Bộ luật hình sự năm 1999 - 3

Quy định về việc áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự trong luật hình sự Việt Nam bảo đảm thực hiện chính sách hình sự của Nhà nước ta là mọi hành vi phạm tội đều bị xử lý. Đồng thời góp phần giúp cho các cơ quan tư pháp có thẩm quyền vận dụng linh hoạt, mềm dẻo và đúng đắn chính sách hình sự của Nhà nước; đồng thời khẳng định việc áp dụng hình phạt với tư cách là biện pháp cưỡng chế hình sự nghiêm khắc nhất không phải là phương tiện duy nhất trong cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm.

1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại"

* Khái niệm, đặc điểm của biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại"

Khi điều tra, truy tố và xét xử các tội phạm có liên quan đến việc chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép tài sản hoặc những tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm… Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án thường phải áp dụng các quy định của BLHS và BLTTHS để giải quyết những vấn đề liên quan đến tài sản, bồi thường thiệt hại. Một trong những biện pháp giải quyết vấn đề tài sản và trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự mà cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng hiệu quả là biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" được quy định tại Điều 42 BLHS năm 1999.

Bộ luật hình sự năm 1985 quy định biện pháp này tại Điều 34 và được giữ nguyên tên gọi tại Điều 42 BLHS năm 1999. "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" là biện pháp tư pháp chung áp dụng đối với người đã thành niên và người chưa thành niên phạm tội. Biện pháp này tuy được quy định thành một điều luật riêng trong BLHS nhưng mới chỉ dừng lại ở việc nêu nội dung của biện pháp. Cũng như biện pháp tư pháp, trong luật hình sự của nước ta từ BLHS năm 1985 đến BLHS năm 1999 chưa có khái niệm pháp lý nào về biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" tuy nhiên nó được đề cập đến trong giáo trình của một số cơ sở đào tạo Luật.

Trong giáo trình Luật hình sự Việt Nam tập 1 của Trường Đại học Luật Hà Nội do Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội, 2010 có đưa ra khái niệm về biện pháp tư pháp này như sau: "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại là biện pháp tư pháp được BLHS quy định, do Tòa án áp dụng đối với người phạm tội khi họ đã gây ra thiệt hại vật chất hoặc tinh thần cho người bị hại" [43, tr. 259].

Như phần trên đã xác định, một trong những đặc điểm của biện pháp tư pháp chung là được áp dụng trong tất cả các giai đoạn tố tụng khác nhau từ điều tra, truy tố đến xét xử vì vậy chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp này không chỉ có Tòa án mà còn cả Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát.

Mặt khác, theo quy định của biện pháp này không chỉ rõ chủ thể bị thiệt hại là "người bị hại". Theo quy định về người tham gia tố tụng của BLTTHS năm 2003, khi người phạm tội thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản đối với cơ quan, đơn vị, tổ chức thì cơ quan, đơn vị, tổ chức tham gia tố tụng với tư cách nguyên đơn dân sự và họ hoàn toàn có quyền được nhận lại tài sản của mình cũng như được sửa chữa tài sản do tội phạm làm hư hỏng hoặc có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với các thiệt hại do tội phạm gây ra. Như vậy, có thể thấy khái niệm này chưa khái quát hết được nội dung của điều luật.

Từ phân tích trên đây, tác giả mạnh dạn đưa ra một khái niệm về biện pháp tư pháp này như sau: Biện pháp trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại là biện pháp cưỡng chế hình sự do BLHS quy định và được cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng buộc người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.

Về đặc điểm của biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại", đây là biện pháp tư pháp nên nó có đủ năm đặc điểm của biện pháp tư pháp nói chung. Đó là:

Thứ nhất, biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" là biện pháp cưỡng chế về hình sự của Nhà nước ít nghiêm khắc hơn hình phạt và hậu quả của việc áp dụng biện pháp tư pháp này là người bị áp dụng không bị coi là có án tích nếu như biện pháp này được áp dụng độc lập với hình phạt.

Thứ hai, biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" được áp dụng cho chính cá nhân cụ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.

Thứ ba, biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" nhằm hỗ trợ hoặc thay thế cho hình phạt, nhằm loại bỏ những điều kiện phạm tội, ngăn ngừa chủ thể bị áp dụng phạm tội trong tương lai.

Thứ tư, biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" được áp dụng đối với tất cả các giai đoạn tố tụng vì vậy Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án đều có thẩm quyền áp dụng biện pháp tư pháp này khi có căn cứ đối với người phạm tội nói chung (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và cả người bị kết án).

Thứ năm, biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" là biện pháp cưỡng chế hình sự được quy định trong BLHS, phải được cơ quan tư pháp có thẩm quyền áp dụng theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ do luật tố tụng hình sự quy định và phải tuân theo nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc công bằng, tôn trọng danh dự, nhân phẩm của con người.

Ngoài năm đặc điểm cơ bản của biện pháp tư pháp nói chung, biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" còn có những đặc điểm riêng sau:

Thứ nhất, biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" trong trường hợp được Tòa án áp dụng cùng với hình phạt không chỉ nhằm hỗ trợ cho hình phạt mà còn để xử lý vật chứng trong vụ án hình sự.

Thứ hai, biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" là biện pháp tư pháp hình sự đồng thời mang tính chất dân sự.

* Vai trò của biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại"

Biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" là bộ phận cấu thành của hệ thống biện pháp cưỡng chế hình sự trong luật hình sự Việt Nam. Mặc dù là biện pháp tư pháp này là biện pháp hỗ trợ cho hình phạt nhưng không vì thế mà làm nó mất đi vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách hình sự và đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Ở phương diện thực hiện chính sách hình sự, biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" có vai trò quan trọng trong lĩnh vực xây dựng và áp dụng pháp luật.

Trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, cùng với việc quy định tội phạm luật hình sự quy định một hệ thống biện pháp cưỡng chế hình sự đa dạng để xử lý các hành vi nguy hiểm cho xã hội là một việc quan trọng để cụ thể hóa chính sách hình sự của Nhà nước. Việc đa dạng hóa các biện pháp cưỡng chế hình sự là một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo tính thống nhất trong thực tiễn áp dụng pháp luật.

Mỗi loại biện pháp cưỡng chế hình sự khác nhau được quy định với nhiều cấp độ và khả năng tác động khác nhau thì việc xử lý hình sự càng chuẩn mực, độ chính xác, công bằng càng cao nghĩa là khả năng phân hóa TNHS càng được bảo đảm tốt hơn. Chính vì thế việc quy định biện pháp tư pháp nói chung và biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" nói riêng làm cho hệ thống các biện pháp cưỡng chế hình sự đa dạng hơn về thể loại, cân đối hơn về số lượng, tương xứng hơn về tính chất và hoàn thiện hơn cho cả hệ thống. Để chứng minh cho nhận định này chúng ta có thể đặt vấn đề ngược lại, nếu hệ thống biện pháp cưỡng chế hình sự không tồn tại biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" thì sẽ như thế nào? Rõ ràng sẽ là một chỗ trống lớn của pháp luật khi thực tiễn xảy ra những sự kiện pháp lý hình sự như: hành vi chiếm đoạt tài sản (trộm cắp, cướp, cướp giật tài sản…) hoặc hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ dẫn đến hậu quả chết người… Lúc này người phạm tội phải chịu một hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi trên cơ sở các quy định về quyết định hình phạt trong BLHS là đương nhiên, nhưng còn các vấn đề về xử lý vật chứng, trách nhiệm bồi thường các tổn thất về vật chất và tinh thần cho người bị hại và một số người tham gia tố tụng khác do tội phạm gây ra sẽ phải căn cứ vào đâu để giải quyết và giải quyết như thế nào?

Như vậy, có thể thấy bằng việc ghi nhận biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" pháp luật đã dự liệu trước những tình huống pháp lý xảy ra trên thực tế để mọi hành vi nguy hiểm cho xã hội đều được giải quyết một cách triệt để, đem lại công bằng cho xã hội và niềm tin cho người dân.

Trong lĩnh vực áp dụng pháp luật, việc quy định biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" trong BLHS là căn cứ pháp lý giúp cho cơ quan tư pháp áp dụng pháp luật một cách chủ động, linh hoạt và chính xác hơn. Việc áp dụng biện pháp này sẽ củng cố, hỗ trợ và tăng cường cho hiệu quả áp dụng hình phạt điều này thể hiện rõ nhất trong trường hợp người phạm tội bị tuyên phạt các hình phạt chính không tước tự do như cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ và còn bị áp dụng kèm theo biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại".

Có thể nói, hình phạt là biện pháp cưỡng chế hình sự tác động trực tiếp đến quyền, tự do thân thể của người phạm tội còn biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" tác động trực tiếp đến lợi ích kinh tế của người này, cùng một lúc người phạm tội phải chịu sự tác động của các biện pháp hình sự khác nhau đến các lợi ích khác nhau sẽ có giá trị trừng trị, cải tạo và giáo dục hơn. Mặt khác, điều đó cũng làm cho chủ thể bị thiệt hại nhận được sự công bằng, góp phần khắc phục giảm bớt những thiệt hại của họ do tội phạm gây ra.

Ngoài ra, biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" còn có vai trò quan trọng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Từ việc áp dụng biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" đối với chính người phạm tội không chỉ có tác dụng tích cực đến người phạm tội mà còn hướng đến cộng đồng xã hội, có tính chất răn đe và phòng ngừa - cộng đồng xã hội nhìn vào hậu quả pháp lý bất lợi mà người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội phải gánh chịu để có những sự lựa chọn cách xử sự

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 01/11/2023