Khái Niệm Và Các Đặc Điểm Của Biện Pháp Tư Pháp Giáo Dục Tại Xã, Phường, Thị Trấn Đối Với Người Chưa Thành Niên Phạm Tội

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BIỆN PHÁP TƯ PHÁP GIÁO DỤC TẠI XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN ĐỐI VỚI

NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI


1.1. Khái niệm và các đặc điểm của biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người chưa thành niên phạm tội

1.1.1. Khái niệm biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội

Thuật ngữ "người chưa thành niên" được sử dụng khá phổ biến trong đời sống xã hội cũng như trong các văn bản pháp luật quốc gia hay các điều ước quốc tế.

Theo Từ điển tiếng Việt, khái niệm người chưa thành niên được hiểu là: người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ, tinh thần cũng như chưa có đầy đủ về quyền và nghĩa vụ công dân [40, tr. 1114]. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất trong Hiến Pháp, BLHS, BLTTHS và các văn bản quy phạm pháp luật khác là dưới 18 tuổi. Việc quy định độ tuổi này cũng phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Theo đó, khái niệm người chưa thành niên được xây dựng dựa trên sự phát triển về mặt thể chất và tinh thần của con người và được cụ thể hoá bằng giới hạn độ tuổi trong các văn bản pháp luật của từng quốc gia trong từng lĩnh vực nhất định. Căn cứ vào đó, người ta quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể của người chưa thành niên. Như vậy, có thể khái niệm: Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên.

Ở Việt Nam, thuật ngữ người chưa thành niên phạm tội được sử dụng

nhiều trong BLHS và BLTTHS. Cả hai văn bản này đều có những chương riêng quy định về người chưa thành niên phạm tội. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa chính thức về người chưa thành niên phạm tội.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 106 trang tài liệu này.

Điều 8 BLHS 1999 quy định:

Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa [32, Điều 8].

Biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người chưa thành niên phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam - 3

Điều 12 BLHS 1999 quy định:

Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [32, Điều 12].

Như vậy chỉ những người từ đủ 14 tuổi trở lên thực hiện những hành vi nguy hiểm cho xã hội quy định tại Điều 8 BLHS 1999 thì mới có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Theo GS.TSKH Lê Cảm và TS. Đỗ Thị Phượng thì người chưa thành niên phạm tội được hiểu là: “Người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi có năng lực trách nhiệm hình sự chưa đầy đủ do hạn chế bởi các đặc điểm tâm sinh lý và đã có lỗi (cố ý hoặc vô ý) trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm” [5, tr. 9]. Theo đó, các tác giả đã chỉ ra năm dấu hiệu cơ bản về người chưa thành niên phạm tội dưới khía cạnh pháp lý hình sự là:

1) từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi; 2)có năng lực trách nhiệm hình sự chưa đầy đủ do hạn chế bởi các đặc điểm tâm sinh lý; 3) đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội; 4) hành vi mà người chưa thành niên thực hiện là hành vi bị pháp luật hình sự cấm; 5) có lỗi (cố ý hoặc vô ý) trong việc thực hiện hành vi đó [5, tr. 9].

Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội xuất phát trên cơ sở giáo dục phòng ngừa là chính nên “các nhà làm luật nước ta đã hạn chế đến mức thấp nhất việc truy cứu TNHS người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ” [45, tr. 3]. BLHS 1999 sửa đổi năm 2009 đã bổ sung theo hướng nhấn mạnh nội dung “Khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội cần hạn chế áp dụng hình phạt tù”. Như vậy, trong trường hợp có những biện pháp xử lý khác khoan hồng mà không cần phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội thì ưu tiên áp dụng các biện pháp tư pháp này nếu biện pháp này có đủ tác dụng cải tạo họ trở thành công dân có ích cho xã hội cũng như có đủ hiệu quả phòng ngừa tội phạm.

Nếu như các biện pháp tư pháp chung có mục đích là hỗ trợ hoặc thay thế cho các hình phạt thì các biện pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội lại chỉ có mục đích thay thế cho hình phạt với ý nghĩa giáo dục, cải tạo người chưa thành niên phạm tội và phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên thực hiện. Điều này xuất phát từ chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta.

Theo giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội thì biện pháp tư pháp được hiểu là: “Các biện pháp hình sự được Bộ luật hình sự quy định, do các cơ quan tư pháp áp dụng đối với người có hành vi nguy hiểm cho xã hội, có tác dụng hỗ trợ hoặc thay thế hình phạt” [39, tr. 194].

Theo GS.TSKH Lê Cảm thì biện pháp tư pháp được hiểu là:

Biện pháp cưỡng chế về hình sự của Nhà nước ít nghiêm

khắc hơn hình phạt do pháp luật hình sự quy định và được các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng cụ thể áp dụng đối với người phạm tội nhằm hạn chế quyền, tự do của người đó hoặc hỗ trợ hay thay thế hình phạt [4, tr. 679].

Theo đó, các biện pháp cưỡng chế về hình sự khác (ít nghiêm khắc hơn hình phạt) bao gồm: a) Các biện pháo tư pháp chung (các Điều 41-44);

b) Miễn hình phạt (Điều 54) và Các biện pháp tư pháp có tính chất giáo dục đối với người chưa thành niên phạm tội - các biện pháp thay thế hình phạt (Điều 70) [4, tr. 615].

Dựa trên nguyên tắc việc xử lý người chưa thành niên pham

tôi

“chủ

yếu nhằm giáo dục họ có ý thức tôn trọng pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội, giúp đỡ họ có điều kiện sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân tốt có ích cho gia đình và xã hội” [45, tr. 3]. Do vậy, đối với người chưa thành niên phạm tội , Toà án ưu tiên quyết định áp dụng

một trong các biên

pháp tư pháp có tính giáo dục , phòng ngừa, trừ trường hơp

viêc

áp dun

g các hình phaṭ khác có lơi

hơn cho ho.

Từ khái niệm khoa học trên, ta có thể hiểu khái niệm biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội như sau: “Biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội là biện pháp cưỡng chế về hình sự ít nghiêm khắc hơn hình phạt của Nhà nước áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, được Tòa án ưu tiên áp dụng khi xét xử nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt mà vẫn đạt được mục đích giáo dục, phòng ngừa”.

Biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định tại Điều 70 BLHS:

1. Đối với người chưa thành niên phạm tội, Tòa án có thể quyết định áp dụng một trong các biện pháp tư pháp có tính giáo dục, phòng ngừa sau đây;

a) Giáo dục tại xã, phường, thị trấn;

b) Đưa vào trường giáo dưỡng

Bên cạnh các biện pháp tư pháp riêng, người chưa thành niên phạm tội có thể bị áp dụng các biện pháp tư pháp khác như: tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm, trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, buộc công khai xin lỗi, bắt buộc chữa bệnh.

1.1.2. Khái niệm biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người chưa thành niên phạm tội

Biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định tại Điều 70 BLHS. Biện pháp này theo quy định của luật hình sự Việt Nam thể hiện quan điểm nhân đạo và chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta đối với người chưa thành niên phạm tội và hành vi do họ thực hiện, đồng thời chứng tỏ khả năng tự giáo dục, cải tạo trở thành người có ích cho xã hội. Tuy nhiên hiện nay chưa đưa ra được khái niệm cụ thể cũng như điều kiện áp dụng biện pháp tư pháp này.

Về khái niệm giáo dục (theo nghĩa rộng) là sự hình thành nhân cách được tổ chức một cách có mục đích, có tổ chức thông qua các hoạt động và các quan hệ giữa nhà giáo dục với người được giáo dục nhằm giúp đỡ người được giáo dục chiếm lĩnh những kinh nghiệm xã hội của loài người.

Giáo dục (theo nghĩa hẹp) được hiểu là một bộ phận của quá trình sư phạm, là quá trình hình thành những cơ sở khoa học của thế giới quan, niềm tin, lý tưởng, động cơ, tình cảm, thái độ, những tính cách, những hành vi, thói quen cư xử đúng đắn trong xã hội, kể cả việc phát triển và nâng cao thể lực. Nói cách khác đây hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự

phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra.

Thông qua các quy định của pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người chưa thành niên phạm tội những năm trước đây, ta có thể nhận thấy biện pháp này dựa trên tinh thần giáo dục và cảm hóa. Để thực hiện biện pháp này những người có trách nhiệm giáo dục, giám sát trước tiên tác động về mặt tình cảm, chủ động gặp gỡ những đối tượng bị áp dụng biện pháp này để tìm hiểu nguyên nhân, hoàn cảnh, động cơ dẫn đến vi phạm pháp luật của các em, từ đó nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng để có thể tiếp cận, hướng dẫn các em theo hướng phù hợp nhất. Sau đó là tác động đến mặt nhận thức, phân tích giảng giải các quy định của pháp luật cũng như đạo đức để các em thấy rõ được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, để các em có thể tự sửa chữa sai lầm, tránh thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật về sau. Đồng thời phải đảm bảo có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân được giao nhiệm vụ giám sát với gia đình, nhà trường, đoàn thanh niên và các tổ chức có liên quan nơi người được giáo dục cư trú, học tập để quản lý, cùng giúp đỡ người được giáo dục nhận thức được việc làm sai trái của mình để sửa chữa sai lầm, giúp họ có sự tiến bộ trong quá trình chấp hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn nơi sinh sống. Những người có trách nhiệm phải thường xuyên theo dõi để có thể nắm bắt được tình hình, sự tiến bộ của các đối tượng này cũng như biết được những khó khăn, vướng mắc mà người chưa thành niên gặp phải để động viên, giúp đỡ kịp thời. Ngoài ra biện pháp tư pháp này còn tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các em có thể dễ dàng tái hòa nhập cộng đồng bằng hình thức hỗ trợ, tìm kiếm việc làm, cho vay vốn sản xuất, kinh doanh, ổn định cuộc sống.

Như vậy, biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn có thể hiểu Nhà

nước thông qua các cơ quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ giám sát tác động lên mặt nhận thức, tình cảm của người chưa thành niên phạm tội để tìm ra nguyên nhân sâu xa nhất của hành vi phạm tội của các em. Từ đó đề ra những biện pháp giúp đỡ hiệu quả nhất nhằm tác động, cảm hóa các đối tượng vi phạm với mục đích là giám sát, giúp đỡ họ nhận thức, sửa chữa được sai lầm, ngăn ngừa các đối tượng tiếp tục có những hành vi vi phạm đồng thời giúp đỡ họ phát triển lành mạnh, có cơ hội học tập, rèn luyện, lao động ngay tại nơi cư trú trên tinh thần không cách ly họ khỏi cộng đồng.

Tuy nhiên, để đưa ra một khái niệm đầy đủ và chính xác về nội dung, cũng như phải đảm bảo ngắn gọn và nhất quán về mặt pháp lý, đồng thời phù hợp với thực tiễn xét xử và chính sách nhân đạo của Nhà nước ta đối với đối tượng này không phải việc dễ dàng vì việc nhận thức của mỗi cá nhân là khác nhau. Hơn nữa, nội hàm của biện pháp này khá rộng. Theo tôi, căn cứ vào các quy định của pháp luật thực định thì khái niệm Biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người chưa thành niên phạm tội phải bao gồm các nội dung như: Thứ nhất, bản chất pháp lý của biện pháp tư pháp; thứ hai, cơ quan có thẩm quyền nào áp dụng; thứ ba, đối tượng bị áp dụng; thứ tư, căn cứ pháp lý và những điều kiện áp dụng; và thứ năm mục đích áp dụng.

Do đó, trên cơ sở các quy định của pháp luật có liên quan đến biện pháp tư pháp này, dưới góc độ khoa học luật hình sự, theo tôi khái niệm Biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người chưa thành niên phạm tội có thể được định nghĩa như sau: Biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người chưa thành niên phạm tội là một trong các biện pháp cưỡng chế về hình sự ít nghiêm khắc hơn hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự, được Tòa án áp dụng trong giai đoạn xét xử trong thời hạn từ một đến hai năm đối với người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có môi trường sống thuận lợi đảm bảo cho

việc giúp các đối tượng tự nhận thức và sửa chữa được sai lầm đồng thời giám sát, ngăn ngừa những hành vi vi phạm để phát triển lành mạnh, ổn định cuộc sống tại nơi cư trú trên tinh thần không cách ly khỏi cộng đồng.

1.1.3. Các đặc điểm của biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người chưa thành niên phạm tội

Với tính cách là một trong các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên của luật hình sự, biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn mang những đặc điểm chung của biện pháp tư pháp, cụ thể như sau:

- Biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội nói chung và biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn nói riêng là biện pháp cưỡng chế về hình sự ít nghiêm khắc hơn hình phạt của Nhà nước được quy định trong BLHS.

Về bản chất thì việc áp dụng biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người áp dụng mà bị giới hạn bởi quy định của Nhà nước về biện pháp tư pháp được thể hiện trong BLHS. Nhà nước quy định trong BLHS những biện pháp tư pháp nào được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, trình tự, thủ tục các biện pháp đó. Theo đó cơ quan tiến hành tố tụng sẽ căn cứ vào những quy định trong BLHS để áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong những vụ án hình sự cụ thể.

Biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội là biện pháp cưỡng chế về hình sự ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt. Các biện pháp cưỡng chế được quy định trong BLHS bao gồm hình phạt và các biện pháp tư pháp, trong đó, hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hậu quả của việc bị áp dụng hình phạt là người phạm tội bị tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích và phải mang án tích. Mặc dù biện pháp tư pháp áp

Xem tất cả 106 trang.

Ngày đăng: 01/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí