xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước; gây ảnh hưởng xấu về an ninh, trật tự, an toàn xã hội).
Ví dụ: Cùng phạm tội trộm cắp tài sản, nếu trong hai vụ án có cùng các tình tiết khác như nhau, nhưng trong vụ án thứ nhất, M trộm cắp tài sản có giá trị 1,5 triệu đồng chưa bị xử lý về mặt hành chính, chưa bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, không gây hậu quả nghiêm trọng; còn trong vụ án thứ hai, N trộm cắp tài sản có giá trị 195 triệu đồng, thì chỉ có trường hợp của N bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật hình sự hiện hành còn trường hợp của M không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Việc xác định mức độ nguy hiểm đáng kể của hành vi nguy hiểm cho xã hội là việc cực kỳ quan trọng trong quá trình bắt người phạm tội quả tang. Có những hành vi nguy hiểm cho xã hội không thể bị coi là tội phạm. Việc phân biệt tính chất nguy hiểm đáng kể của tội phạm sẽ là căn cứ để áp dụng biện pháp bắt người phạm tội quả tang với tính chất là BPNC hình sự và bắt người phạm tội theo thủ tục hành chính.
2.1.2. Điều kiện áp dụng biện pháp bắt người phạm tội quả tang Trường hợp thứ nhất: Người đang thực hiện phạm tội thì bị phát hiện
“Người đang thực hiện tội phạm là người đang thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật hình sự nhưng chưa hoàn thành tội phạm hoặc chưa kết thúc việc phạm tội thì bị bắt”.
Người thực hiện tội phạm là người đang thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong BLHS nhưng chưa hoàn thành tội phạm hoặc chưa kết thúc việc phạm tội thì bị phát hiện. Hành vi đang thực hiện tội phạm là hành vi đã và đang tiếp tục xâm hại đến khách thể được sự bảo vệ bởi pháp luật hình sự. Hành vi đang thực hiện tội phạm có thể gây ra hậu quả vật chất như đã hủy hoại được một phần tài sản của người khác và vẫn đang hủy hoại tiếp. Đây là trường hợp tội phạm đã bắt đầu được thực hiện, đang diễn ra và chưa kết thúc trên thực tế, đang gây ra thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Việc người đang thực hiện tội phạm có bị phát hiện hay không tùy thuộc vào đặc điểm của
cấu thành tội phạm bối cảnh xảy ra tội phạm, khả năng, kiến thức, vị trí công tác của người phát giác sự kiện phạm tội. Trong trường hợp hành vi đang thực hiện một tội phạm có cấu thành hình thức thì mặc dù hậu quả vật chất chưa xảy ra vẫn coi là hành vi đang thực hiện tội phạm. Đối với người đang thực hiện tội giết người, cướp tài sản…hành vi phạm tội xảy ra rõ ràng, cụ thể, bất kỳ người nào cũng có thể phát hiện được và bắt quả tang, nhưng đối với các tội phạm về tham nhũng, các tội xâm phạm an ninh quốc gia…, thì hành vi phạm tội xảy ra thường đòi hỏi phải có thời gian để xác minh, kết luận, cho nên rất khó bắt người phạm tội về tham nhũng, xâm phạm an ninh quốc gia quả tang, trừ những trường hợp do tố cáo. Ví dụ: tối ngày 18-1-2005, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội đã bắt quả tang Đỗ Mạnh Dũng, cán bộ thuế quận Hoàn Kiếm, khi đang phạm tội nhận hối lộ. Dũng từng bị nhiều doanh nghiệp tố cáo có hành vi nhũng nhiễu, vòi vĩnh, tuy nhiên chỉ đến ngày 18-1-2005, mới có người tố cáo cơ quan điều tra để bắt quả tang. Đối với tội kéo dài là tội phạm mà hành vi khách quan có khả năng diễn ra không gián đoạn trong một thời gian dài (Ví dụ: tội tàng trữ trái phép vũ khí, quân dụng phương tiện kỹ thuật quân sự được quy định tại Điều 230 Bộ luật TTHS năm 1999), thì người phạm tội trong suốt thời gian đó, đều bị coi là đang thực hiện tội phạm [45, tr.91-92].
Trường hợp thứ hai: Ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện. Đây là trường hợp vừa thực hiện tội phạm xong, người phạm tội chưa kịp chạy trốn hoặc đang cất giấu công cụ, phương tiện phạm tội, đang xóa những dấu vết của tội phạm trước khi chạy trốn bị phát hiện. Trong trường hợp này người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm phát hiện ngay thì mặc dù không có vật chứng để ai cũng được coi là phạm tội quả tang. Vì vậy, khi bắt người phạm tội quả tang trong trường hợp này, cần có chứng cứ chứng minh người phạm tội vừa thực hiện hành vi phạm tội xong, chưa kịp chạy trốn và sự phát hiện, bắt giữ người phạm tội phải xảy ra không gián đoạn về mặt thời gian. Chứng cứ trong trường hợp này, thường được xác định bằng công cụ, phương tiện phạm tội, vật mang dấu vết của tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm, mà người phạm tội chưa kịp cất giấu
hoặc lời khai của người làm chứng, người bị hại là người có mặt khi phạm tội thực hiện hành vi phạm tội [45, tr.92].
Ví dụ: Sau khi đâm chết nạn nhân, kẻ phạm tội đang nhét xác chết vào bao tải nhằm đưa đi chôn giấu thì bị người thân của nạn nhân phát hiện. Trường hợp này dù không nhìn thấy công cụ, phương tiện phạm tội nhưng có thể dựa vào chính sự không minh bạch của hành vi mà người đó đang thực hiện để xác định đây chính là người vừa thực hiện tội phạm.
Có thể bạn quan tâm!
- Biện pháp ngăn chặn bắt người phạm tội quả tang trong luật Tố Tụng hình sự Việt Nam - 3
- Đang Làm Việc Phạm Pháp Hoặc Sau Khi Phạm Pháp Thì Bị Phát Giác Ngay. 2- Đang Bị Đuổi Bắt Sau Khi Phạm Pháp.
- Xét Tới Các Tình Tiết Của Vụ Án Cụ Thể, Có Khả Năng Bị Can Sẽ Trốn Tránh (Nguy Cơ Bỏ Trốn) Hoặc
- Sự Việc Phạm Tội Đơn Giản, Chứng Cứ Rõ Ràng;
- Biện pháp ngăn chặn bắt người phạm tội quả tang trong luật Tố Tụng hình sự Việt Nam - 8
- Biện pháp ngăn chặn bắt người phạm tội quả tang trong luật Tố Tụng hình sự Việt Nam - 9
Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.
Trường hợp thứ ba: Đang bị đuổi bắt. Đây là trường hợp người phạm tội đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện nên chạy trốn và bị đuổi bắt. Trong trường hợp này việc đuổi bắt phải liền ngay sau khi chạy trốn thì mới có cơ sở xác định đúng người phạm tội, tránh bắt nhầm phải người không thực hiện tội phạm. Trong trường hợp phạm tội quả tang này, người phạm tội vừa thực hiện hành vi phạm tội xong hoặc đang thực hiện hành vi phạm tội thì bị lộ, bỏ chạy, người bị hại hoặc người làm chứng có mặt tại đấy liền đuổi bắt hoặc hô hoán để những người xung quanh đuổi bắt. So với trường hợp phạm tội quả tang thứ nhất, trong trường hợp này, người phạm tội quả tang không bị bắt ngay khi đang thực hiện tội phạm; so với trường hợp phạm tội quả tang thứ hai, người phạm tội cũng không bị bắt ngay sau khi thực hiện tội phạm, mà phải có một khoảng thời gian nhất định đuổi bắt người phạm tội. Việc đuổi bắt phải diễn ra ngay sau khi người phạm tội bị lộ, bỏ chạy, giữa hành vi bỏ chạy và hành vi đuổi bắt phải không có sự gián đoạn về mặt thời gian. Trường hợp ở những nơi hẻo lánh, người phạm tội là biệt kích, phỉ hoặc côn đồ hung hãn, có vũ khí mà người phát hiện chỉ có một mình, không có vũ khí, nếu bắt ngay có thể không bắt được, mà còn có thể bị nguy hiểm đến tính mạng, cho nên phải bí mật theo sát đến nơi đông người mới hô hoán lên để mọi người bắt. Đây cũng được coi là sau khi thực hiện tội phạm thì bị đuổi bắt, vì quá trình theo dõi, bám sát người phạm tội cho đến nơi đông người vẫn đảm bảo sự liên tục về mặt thời gian giữa hành vi bỏ chạy và hành vi đuổi bắt [45, tr.93].
Ví dụ: Người vừa móc túi lấy ví tiền của người khác bị người đó phát hiện và
hô hoán nên bỏ chạy và bị đuổi bắt nhưng người đó đã chạy thoát, vài hôm sau người bị hại gặp lại người này tại bến xe khách. Trong trường hợp này người bị hại không được bắt ngay người đó mà phải báo cáo với cơ quan có thẩm quyền để xem xét và có thể bắt theo trường hợp khẩn cấp thứ hai [44].
2.1.3. Về chủ thể và thủ tục áp dụng biện pháp bắt người phạm tội quả tang
Theo quy định tại khoản 1 Điều 82 BLTTHS, pháp luật TTHS cho phép “bất kỳ người nào cũng có quyền bắt người phạm tội quả tang”. Đây chính là điểm phân biệt giữa bắt người trong trường hợp bắt người khẩn cấp và bắt người đang truy nã. Với sự quy định thẩm quyền bắt là không có giới hạn, nhà làm luật muốn huy động và phát huy tính tích cực của quần chúng nhân dân vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, nhằm tạo điều kiện ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội và trốn tránh pháp luật của người phạm tội, nhờ vậy bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
Khác với việc áp dụng trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam và trường hợp bắt người trong trường hợp khẩn cấp, việc bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã không cần phải có lệnh của cơ quan hay người có thẩm quyền trong hoạt động TTHS. Bất kỳ người nào cũng có quyền bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã và có quyền tước vũ khí, hung khí của người bị bắt. Việc cần phải tước vũ khí, hung khí ngay là vô cùng cần thiết, khi đó sẽ loại bỏ được điều kiện tiếp tục phạm tội của người bị bắt hay chống cự lại người bắt. Sau khi bắt được người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã, người bắt (một người hay nhiều người) giải ngay người bị bắt đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc UBND nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay người bị bắt đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền. Để đảm bảo đúng trình tự và quy định của luật thì các cơ quan tiếp nhận người bị bắt phải tiến hành những việc cần làm ngay sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt tại Điều 83 Bộ luật TTHS 2003:
“1. Sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, Cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 24 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt.
2. Đối với người bị truy nã thì sau khi lấy lời khai, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy nã để đến nhận người bị bắt.
Sau khi nhận người bị bắt, cơ quan đã ra quyết định truy nã phải ra ngay quyết định đình nã. Trong trường hợp xét thấy cơ quan đã ra quyết định truy nã không thể đến nhận ngay người bị bắt thì sau khi lấy lời khai, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải ra ngay quyết định tạm giữ và thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy nã biết.
Sau khi nhận được thông báo, cơ quan đã ra quyết định truy nã có thẩm quyền bắt để tạm giam phải ra ngay lệnh tạm giam và gửi lệnh tạm giam đã được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn cho Cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Sau khi nhận được lệnh tạm giam, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt có trách nhiệm giải ngay người đó đến trại tạm giam nơi gần nhất”.
Với tính chất đặc thù nhanh và kịp thời của việc bắt người trong trường hợp phạm tội quả tang, cho nên ngay sau cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận phải lấy lời khai lập biên bản về việc bắt người. Biên bản về việc bắt người trong trường hợp phạm tội quả tang là một nguồn chứng cứ tài liệu quan trọng để giải quyết vụ án. Nội dung của biên bản phải được ghi đầy đủ theo quy định tại Điều 84 của Bộ Luật TTHS năm 2003:
“ 1.Người thi hành lệnh bắt trong mọi trường hợp đều phải lập biên bản.
Biên bản phải ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm bắt, nơi lập biên bản; những việc đã làm, tình hình diễn biến trong khi thi hành lệnh bắt, những đồ vật, tài liệu bị tạm giữ và những khiếu nại của người bị bắt.
Biên bản phải được đọc cho người bị bắt và những người chứng kiến nghe. Người bị bắt, người thi hành lệnh bắt và người chứng kiến phải cùng ký tên vào biên bản, nếu ai có ý kiến khác hoặc không đồng ý với nội dung biên bản thì có quyền ghi vào biên bản và ký tên.
Việc tạm giữ đồ vật, tài liệu của người bị bắt phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật này.
2. Khi giao và nhận người bị bắt, hai bên giao và nhận phải lập biên bản.
Ngoài những điểm đã quy định tại khoản 1 Điều này, biên bản giao nhận còn phải ghi rõ việc bàn giao các biên bản lấy lời khai, đồ vật, tài liệu đã thu thập được, tình trạng sức khoẻ của người bị bắt và mọi tình tiết xảy ra lúc giao nhận.”
- Theo khoản 1 Điều 84 đối với biên bản bắt người: Người thi hành lệnh bắt trong mọi trường hợp đều phải lập biên bản. Biên bản phải ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm bắt, nơi lập biên bản; những việc đã làm, tình hình diễn biến trong khi thi hành lệnh bắt, những đồ vật, tài liệu bị tạm giữ và những khiếu nại của người bị bắt. Biên bản phải được đọc cho người bị bắt và những người chứng kiến nghe. Người bị bắt, người thi hành lệnh bắt và người chứng kiến phải cùng ký tên vào biên bản, nếu ai có ý kiến khác hoặc không đồng ý với nội dung biên bản thì có quyền ghi vào biên bản và ký tên. Việc tạm giữ đồ vật, tài liệu của người bị bắt phải được tiến hành theo quy định trong bộ luật TTHS.
- Theo khoản 2 Điều 84 biên bản giao nhận người bị bắt: ngoài những điểm đã quy định như đối với biên bản bắt người đã nêu, biên bản giao nhận còn phải ghi rõ việc bàn giao các biên bản lấy lời khai, đồ vật, tài liệu đã thu thập được, tình trạng sức khoẻ của người bị bắt và mọi tình tiết xảy ra lúc giao nhận. Yêu cầu pháp lý phải lập biên bản về việc bắt người đã tạo ra tính công khai, minh bạch trong quá trình bắt người, tạo cơ sở pháp lý bảo vệ quyền lợi người bị bắt, đồng thời là nguồn tài liệu quan trọng phục vụ các hoạt động TTHS sau này.
Tiếp đó người ra lệnh bắt, cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo tới đầy đủ cá nhân, cơ quan, tổ chức biết về việc bắt giữ đó. Theo Điều 85 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định: “ Người ra lệnh bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho gia đình người đã bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó cư trú hoặc làm việc biết. Nếu thông báo cản trở việc điều tra thì sau khi cản trở đó không còn nữa, người ra lệnh bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay”.
Pháp luật TTHS yêu cầu phải thông báo về việc bắt người là hoàn toàn hợp
lý, bởi nếu không thông báo cho những đối tượng này, có thể họ sẽ tổ chức việc tìm kiếm hay thông báo về việc mất tích cũng như có thể gây tâm lý lo lắng, hoang mang cho gia đình, người thân của người bị bắt, và có thể gây hao tốn nhiều tiền của và công sức của họ.
Vậy, thủ tục áp dụng bắt người phạm tội quả tang, theo chúng tôi bao gồm bốn bước sau đây:
- Bước 1: Tước vũ khí, hung khí (nếu có) của người bị bắt;
- Bước 2: Giải ngay người bị bắt đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất;
- Bước 3: Các cơ quan này phải lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và giải ngay người bị bắt đến cơ quan điều tra có thẩm quyền;
- Bước 4: Trong vòng 24 giờ Cơ quan điều tra phải ra quyết định tạm giữ và thông báo về việc bắt hoặc trả tự do cho người bị bắt giữ.
Người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang là một trong những đối tượng được áp dụng biện pháp tạm giữ theo Khoản 1 Điều 48 Bộ luật TTHS năm 2003: “ Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ”.
Khi ra quyết định tạm giữ, cơ quan điều tra phải gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp đúng thời hạn theo khoản 3 Điều 86 Bộ luật TTHS năm 2003: “Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi ra quyết định tạm giữ, quyết định tạm giữ phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp. Nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Quyết định tạm giữ phải ghi rõ lý do tạm giữ, ngày hết hạn tạm giữ và phải giao cho người bị tạm giữ một bản”. Thời gian tạm giam không được quá ba ngày, kể từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Trong những trường hợp cần thiết có thể gia hạn thời gian tạm giữ theo Khoản 2 Điều 87 của Bộ luật TTHS năm 2003: “Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm
giữ, nhưng không quá ba ngày. Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá ba ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn; trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị gia hạn và tài liệu liên quan đến việc gia hạn tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn”.
* Thủ tục bắt người phạm tội quả tang là người chưa thành niên
Người chưa thành niên là nhóm người có độ tuổi từ đủ 14 tuổi trở lên đến dưới 18 tuổi. Do những đặc điểm đặc thù của đối tượng này, đồng thời vận dụng chính sách nhân đạo của pháp luật, nhà làm luật quy định thủ tục TTHS đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên tại Chương XXI - Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, thuộc phần thứ bảy quy định về thủ tục đặc biệt của Bộ luật TTHS. Trong đó, việc bắt người chưa thành niên theo quy định tại Điều 303 Bộ luật TTHS như sau:
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị bắt nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82 của Bộ luật TTHS, nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
- Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82 của Bộ luật TTHS, nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
- Cơ quan ra lệnh bắt người chưa thành niên phải thông báo cho gia đình, người đại diện hợp pháp của họ biết ngay sau khi bắt.
* Thủ tục bắt người phạm tội quả tang đối với người nước ngoài
Khi bắt người nước ngoài phạm tội, ngoài việc tuân theo các quy định tại Điều 82 Bộ luật TTHS, còn phải tuân theo quy định của các văn bản pháp luật khác. Người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam, họ có thể là người không có quốc tịch hoặc có quốc tịch nước khác hiện đang sinh sống tại Việt Nam, họ có địa vị pháp lý khác nhau nên khi phạm tội thì thẩm quyền, thủ