So Sánh Quỹ Đầu Tư Mạo Hiểm Và Quỹ Đầu Tư Chứng Khoán

sự phân biệt rõ ràng, và được sử dụng thay thế cho nhau. Còn ở Mỹ, đây là hai khái niệm tương đối độc lập và phân biệt với nhau. Quỹ cổ phần tư nhân bao gồm những quỹ mà vốn góp hình thành nên do quỹ đó được dành cho nhiều hoạt động khác nhau: ĐTMH, mua cổ phiếu giành quyền kiểm soát bằng cách sử dụng đòn bẩy, các vụ sáp nhập, đầu tư sử dụng nợ thứ cấp có quyền ưu tiên thấp hơn nợ ngân hàng nhưng lại cao hơn so với chứng khoán vốn cổ phần và thường gắn kèm chứng quyền, đầu tư vào chứng khoán nợ mà tổ chức phát hành có nhiều nguy cơ bị mất khả năng thanh toán (chiến lược đầu tư nhằm mua trái phiếu chiết khấu của một công ty bị cạn kiệt về mặt tài chính, sau đó chuyển các chứng khoán đang nắm giữ thành chứng khoán vốn cổ phần và chủ động tham gia vào quản lý công ty đó) và nhiều hoạt động hỗn hợp khác như cho thuê tài sản và mua nợ mạo hiểm (mua các khoản phải thu của những công ty non trẻ có độ rủi ro cao). Còn khái niệm quỹ ĐTMH chủ yếu được dành cho những quỹ đầu tư vào vốn cổ phần và những sản phẩm có liên quan đến vốn cổ phần trong các công ty định hướng tăng trưởng. Về nguyên tắc, quỹ cổ phần tư nhân có thể đầu tư vào một công ty ở mọi giai đoạn như: hình thành ý tưởng, khởi sự, mở rộng, mua lại hoặc sáp nhập, cứu vãn hoặc xoay chuyển tình thế, mua lại cổ phiếu đã niêm yết, v.v... Còn quỹ ĐTMH thường tập trung vào các công ty ở giai đoan hình thành ý tưởng, thành lập, khởi sự và mở rộng.

Một loại hình quỹ đầu tư quen thuộc, và hoạt động rất mạnh ở Việt Nam trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của TTCK đó là quỹ đầu tư chứng khoán. Về mặt kinh tế học quỹ đầu tư chứng khoán là quỹ hình thành từ vốn góp của người đầu tư ủy thác cho công ty quản lý quỹ, và đầu tư tối thiểu 60% giá trị tài sản của quỹ vào chứng khoán.

Bảng 3: So sánh quỹ đầu tư mạo hiểm và quỹ đầu tư chứng khoán


Loại quỹ

Quỹ đầu tư mạo hiểm

Quỹ đầu tư chứng khoán

Cơ cấu huy động vốn

Kết thúc đóng

Kết thúc đóng hoặc mở

Hình thức đầu tư

Đầu tư trực tiếp (vốn cổ

phần – vốn góp).

Theo danh mục đầu tư (cổ

phiếu, trái phiếu đã niêm

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.

Hoạt động đầu tư mạo hiểm trên thế giới và một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam (2008) - 3




yết)


Đối tượng đầu tư

Các dự án, doanh nghiệp nhỏ, chưa niêm yết, chủ yếu trong lĩnh vực có tiềm năng tăng trưởng

nhanh như công nghệ cao


Các doanh nghiệp đã phát hành chứng khoán ra công chúng

Quy mô vốn trung bình

Nhỏ, từ vài triệu đến vài

chục triệu USD

Lớn hơn, từ vài chục đến

hàng trăm triệu USD

b. Đặc điểm của quỹ ĐTMH: có 3 đặc điểm cơ bản sau:

Tính rủi ro của các khoản đầu tư cao: ĐTMH là một hoạt động có tính rủi ro rất cao do đối tượng được nhận vốn đầu tư của các quỹ ĐTMH chủ yếu là những công ty tư nhân mới thành lập hoặc hoạt động trong những lĩnh vực mới hình thành. Sự rủi ro xuất phát từ bốn yếu tố, cũng đồng thời là bốn đặc điểm của các công ty nhận đầu tư, đó là: Sự không chắc chắn, thông tin không cân xứng, tính chất của tài sản và các điều kiện trong thị trường tài chính và thị trường sản phẩm có liên quan.

Các công ty được đầu tư thường có số tài sản vô hình chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị tài sản, đó là những tài sản rất khó định giá và có thể không bán được trong trường hợp hoạt động kinh doanh của công ty bị thất bại. Điều kiện thị trường của các ngành được đầu tư cũng có tính biến động rất cao. Có những ngành mà sản phẩm mới còn ở trong giai đoạn nghiên cứu, thử nghiệm chứ chưa được công chúng thừa nhận rộng rãi. Sự không chắc chắn về thành công của sản phẩm, về phản ứng của đối thủ cạnh tranh cũng như của khách hàng. Do đó, thành công của công ty nhận vốn đầu tư, và kéo theo đó là lợi nhuận mà nhà đầu tư kỳ vọng nhận được trong tương lai, cũng có tính không chắc chắn rất cao.

Thời hạn của các khoản đầu tư: Các khoản đầu tư của các quỹ ĐTMH thường là những khoản đầu tư trung đến dài hạn. Đối tượng nhận vốn đầu tư của các quỹ ĐTMH chủ yếu là các công ty cổ phần tư nhân, chưa được niêm yết trên thị trường chứng khoán, thậm chí mới ở giai đoạn hình thành ý tưởng. Để đi đến được cái đích cuối cùng của quỹ là thực hiện một chiến lược thoát vốn hiệu quả, đem lại lợi nhuận cao nhất cho các nhà đầu tư vào quỹ từ khoản vốn bỏ ra ban đầu, các công

ty đó phải đạt được sự phát triển ở mức độ nhất định sao cho cổ phiếu của chúng trở nên có sức hấp dẫn. Điều này đòi hỏi một khoảng thời gian cần thiết cho sự tích luỹ mở rộng, có thể kéo dài một vài năm, hoặc đến bảy hay mười năm.

Người đầu tư: Do các khoản đầu tư mà quỹ ĐTMH thực hiện vừa có tính rủi ro cao vừa là những khoản đầu tư dài hạn nên không phải bất kỳ ai có một khoản tiền tiết kiệm trong tay cũng có thể tham gia vào các quỹ này như trong trường hợp của quỹ tương hỗ. Người đầu tư vào quỹ thường là các định chế (nhà đầu tư có tổ chức) như các quỹ hưu trí, quỹ bảo trợ của các trường đại học, công ty bảo hiểm, công ty kinh doanh thông thường hoặc một số ít những cá nhân giàu có. Đặc biệt, các nhà đầu tư có tổ chức là đối tượng có vai trò quan trọng do họ có số vốn lớn, có khả năng thực hiện sự đa dạng hoá và có thể chấp nhận đầu tư dài hạn.

c. Các cách hình thành, mô hình và chức năng của các quỹ ĐTMH

Các cách hình thành: Có hai cách hình thành quỹ ĐTMH.

- Thứ nhất, các công ty tự thành lập quỹ ĐTMH. Các công ty hay tập đoàn có tiềm lực tài chính lớn sẽ tự lập ra một quỹ ĐTMH hoặc cùng hợp tác góp vốn vào một quỹ, họ sẽ thuê hay tiến cử một ban quản lý quỹ chuyên nghiệp chịu trách nhiệm quản lý quỹ đó. Quỹ này có thể là quỹ chuyên biệt hóa hoặc quỹ mang tính chất mở rộng. Hiện nay, dạng quỹ này khá phổ biến trên thế giới đặc biệt là ở Mỹ có thể kể ra một số tập đoàn đã thành lập hình thức quỹ này nhưa tập đoàn Intel, Microsoft,

- Thứ hai, các tổ chức đầu tư có thể tiến hành góp vốn vào các công ty quản lý vốn ĐTMH chuyên nghiệp (hình thức Limited partnership). Các công ty dạng này gọi vốn từ các nhà đầu tư nhỏ lẻ hay các tổ chức đầu tư để tiến hành đầu tư vào nhiều dự án có thời gian đầu tư vào mỗi dự án từ 3 – 7 năm. Và các công ty quản lý quỹ thường lập các quỹ riêng biệt chuyên vào các ngành khác nhau với những mục tiêu đầu tư khác nhau, mỗi quỹ này thường tồn tai từ 10 – 15 năm.

Các mô hình quỹ ĐTMH

- Mô hình quỹ hợp danh hữu hạn (Limited partnership): Mô hình quỹ mạo hiểm phổ biến nhất hiện nay ở Mỹ và được nhiều nước học tập là dạng tín thác đầu tư (Investment trust) dưới hình thức hợp danh hữu hạn (Limited partnership) theo

luật Anh – Mỹ. Theo mô hình này, nguồn vốn ĐTMH được cấp chủ yếu bởi các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần khác nhau, với tư cách là thành viên góp vốn trách nhiệm hữu hạn (limited partner) của quỹ. Số vốn này được giao cho một hoặc một vài thành viên quản lý đầu tư vốn (general partner) thực hiện các hoạt động đầu tư và phải chịu trách nhiệm vô hạn (hoàn toàn) bằng toàn bộ tài sản của mình.

- Mô hình đơn vị tín thác (Trust unit): Quỹ ĐTMH dưới hình thức đơn vị tín thác không có tư cách pháp nhân mà chỉ là một tổ hợp vốn dựa trên một điều lệ hoặc một hình thức pháp lí tương đương, được uỷ thác cho một tổ chức (công ty) quản lý danh mục đầu tư một cách chuyên nghiệp với một mức chi phí quản lý nhất định, theo chế định người nhận uỷ thác và được giám sát thừa nhận uỷ thác bởi một tổ chức.

- Mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH): Theo kinh nghiệm tổ chức các quỹ mạo hiểm trên thế giới thì mô hình này ít xuất hiện và không phát triển nhiều. Do bản chất của các quỹ rất gần với tính chất xã hội hoá đầu tư, nghĩa là huy động vốn một cách rộng rãi để tập trung vào một bộ phận quản lý đầu tư chuyên nghiệp, bộ phận này với những kỹ năng nghiệp vụ và kinh nghiệm, sẽ quản lý đầu tư số vốn tốt hơn các nhà đầu tư trực tiếp thực hiện. Vì vậy, mô hình công ty TNHH không phát huy thật sự được những ưu điểm đặc trưng của quỹ đầu tư, cho dù số vốn của quỹ dưới hình thức công ty TNHH có thể rất lớn.

- Mô hình công ty cổ phần (CTCP): Mô hình quỹ dưới hình thức CTCP có cấu trúc đơn giản như các CTCP thông thường, các cổ đông được chia thành cổ đông sáng lập và cổ đông thông thường. Các sáng lập viên thường nắm một tỷ lệ cổ phần đáng kể để có đủ điều kiện tham gia hội đồng quản trị với tư cách thành viên và chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp cổ phần. Mô hình này cũng cho phép một quỹ mạo hiểm được hình thành cả dưới dạng quỹ đóng (ngưng góp cổ phần sau một thời hạn nhất định), và quỹ mở (được phép phát hành liên tục và rộng rãi cổ phần để tăng vốn, đồng thời sẵn sàng thu mua lại các cổ phiếu đã phát hành).

Chức năng của quỹ ĐTMH:

- Chức năng tài chính của quỹ ĐTMH:

Huy động vốn: Tùy thuộc vào hình thức tổ chức pháp lý, quỹ ĐTMH được lựa chọn hình thức và cách thức huy động vốn mà pháp luật cho phép như phát hành cổ phiếu, trái phiếu (nếu được tổ chức theo hình thức doanh nghiệp), chứng chỉ quỹ đầu tư (nếu theo hình thức tín thác đầu tư), vay vốn các tổ chức tín dụng theo quy định. Cấp vốn mạo hiểm dưới các hình thức: Hợp đồng khoa học và công nghệ,

hình thức này cho phép giải phóng tối đa nguồn lực KHCN. Hay cấp vốn cổ phần – vốn góp, hình thức này phổ biến nhất trong tổng số vốn hoạt động của quỹ ĐTMH.

Cho doanh nhân đối tác vay để mua lại doanh nghiệp: Các doanh nghiệp sau quá trình dài được các quỹ ĐTMH tài trợ vốn đã hoạt động tốt, và đang trong giai đoạn mở rộng, và phát triển. Họ đang nắm giữ vai trò kinh doanh nhưng muốn dành quyền kiểm soát doanh nghiệp để tự mình quản lý điều hành một các độc lập. Khi đó, bản thân các quỹ có thể cho doanh nghiệp đối tác vay để mua lại phần sở hữu của quỹ trong doanh nghiệp công nghệ cao. Tuy nhiên, mức giá mà các quỹ đưa ra là không hề thấp, và các doanh nghiệp phải hết sức cân nhắc về vấn đề này.

- Nhóm chức năng phi tài chính:

Hỗ trợ công tác quản trị doanh nghiệp: Các quỹ ĐTMH giúp các doanh nghiệp tiến hành các hoạt động kinh doanh: tiếp thị, lập kế hoạch, bán hàng, sản xuất … Ngoài ra còn giúp các doanh nghiệp tuyển mộ một đội ngũ quản lý chuyên nghiệp, từ cấp độ tổng giám đốc cho đến trưởng các bộ phận.

Tư vấn về pháp lý : Vì nhiều nhà quản lý chưa thật sự am hiểu về pháp lý như vấn đề sở hữu trí tuệ, bằng phát minh - sáng chế, các thỏa thuận li-xăng (lisence), nhãn hiệu hàng hóa ... nên rất cần sự tư vấn của các chuyên gia từ quỹ, mà không phải tốn thêm một khoản chi phí cho các công ty tư vấn pháp luật. Ngoài ra, quỹ ĐTMH còn hỗ trợ cho việc phát hành cổ phiếu, tháo gỡ khó khăn trong việc xin các thủ tục pháp lý với các doanh nghiệp mới thành lập, cũng như những tranh chấp các doanh nghiệp gặp phải trong hợp đồng.

Tổ chức, thúc đẩy quan hệ cộng tác: khi phân tích vai trò của ĐTMH cho thấy các quỹ ĐTMH có ưu thế trong việc tổ chức các quan hệ rộng rãi trong R&D và trong kinh doanh. Thực ra, một quỹ mạo hiểm tự mình cũng không thể đủ nhân lực để giúp doanh nghiệp giải quyết mọi khó khăn trong quá trình sản xuất kinh

doanh. Tuy nhiên, thông qua việc tổ chức mạng lưới quan hệ, trong đó đặc biệt là quan hệ ba bên: trường đại học - viện nghiên cứu - và nhà kinh doanh có danh tiếng, quỹ cần tổ chức và khai thác hiệu quả tối đa mối quan hệ này để hỗ trợ doanh nghiệp do quỹ ươm tạo.

Bảo vệ các quyền sở hữu trí tuệ: có ý nghĩa vô cùng quan trọng để hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển thị trường công nghệ của mình cũng như tìm được tới nguồn tài trợ cho R&D công nghệ cũng như cho giai đoạn đầu của doanh nghiệp. Các trường đại học, viện nghiên cứu sẽ nắm giữ quyền sở hữu đối với thành quả nghiên cứu đổi mới và chính họ mới có quyền cấp phép quyền sử dụng cho doanh nghiệp nếu một nhà nghiên cứu – triển khai cần sự đầu tư của họ để thực hiện các ý tưởng của mình. Do đó, dịch vụ tư vấn có thể giúp các nhà nghiên cứu – triển khai hưởng và khai thác được nhiều hơn thành quả nghiên cứu của họ sau khi đã đi đến những thoả thuận với quỹ ĐTMH về sự tài trợ của quỹ này.

2.2 Chủ thể tham gia hoạt động ĐTMH

Tham gia trực tiếp vào quá trình ĐTMH có 3 đối tượng chủ yếu:

Các nhà đầu tư: Họ có thể là những nhà tư bản cá nhân giàu có (angel capitalist), có thể là những tổ chức lớn hoạt động trong lĩnh vực tài chính (ngân hàng, công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí, v.v...) hoặc phi tài chính (các tập đoàn sản xuất). Họ có lượng tiền lớn sẵn sàng để đầu tư và chấp nhận rủi ro cao, hy vọng đạt được mức lợi nhuận lớn. Về cơ bản, có hai phương thức tham gia của các nhà đầu tư:

Thứ nhất, cá nhân tự đầu tư: Theo cách này, sự chủ động của người đầu tư rất cao. Họ có thể tự đánh giá các cơ hội, ý tưởng và lựa chọn đối tượng nhận đầu tư thích hợp, tự đưa ra các quyết định cần thiết trong quá trình đầu tư, đồng thời được hưởng toàn bộ lợi nhuận thu được sau này mà không phải chia sẻ với ai. Tuy nhiên, phương pháp này có rất nhiều nhược điểm. Trên thực tế, một cá nhân khó có thể có một lượng vốn lớn cũng như được trang bị những kỹ năng, kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm thực tiễn đủ để thu được thành công. Hơn nữa, đầu tư một mình có nghĩ là phải gánh chịu toàn bộ rủi ro có khả năng sẽ xảy ra trong tương lai.

Thứ hai, tổ chức đầu tư: Trong trường hợp này, nhiều nhà đầu tư cùng góp vốn với nhau để thực hiện đầu tư nhằm hướng tới mục tiêu chung. Ưu điểm của

hình thức này thể hiện rõ nhất ở khả năng phân tán và chia sẻ rủi ro. Sự kết hợp này có thể diễn ra dưới nhiều dạng: hợp đồng hợp tác kinh doanh, thành lập công ty liên doanh, thành lập quỹ ĐTMH, v.v... đặc biệt là quỹ ĐTMH tuy xuất hiện sau song càng ngày càng chứng minh được nhiều điểm nổi trội so với những phương thức đầu tư vốn mạo hiểm có tổ chức khác.

Các nhà quản lý vốn mạo hiểm: Họ là những người hành nghề đầu tư mạo hiểm chuyên nghiệp, vừa có tri thức về công nghệ, vừa có tài năng quản trị, họ đảm nhiệm chức năng huy động vốn từ các nhà đầu tư, tìm kiếm và đánh giá cơ hội đầu tư, tiến hành đầu tư theo những chiến lược nhất định để làm tăng giá trị cho công ty nhận đầu tư, và cuối cùng là thực hiện thoát vốn để thu hồi vốn và lợi nhuận, hoàn trả cho các nhà đầu tư.

Các doanh nhân khởi nghiệp: Họ là những kỹ sư, những nhà khoa học, nhà nghiên cứu,v.vđang muốn biến những ý tưởng, phát minh khoa học của mình thành sản phẩm thành công trên thương trường. Để nhận được những khoản vốn ĐTMH, họ không chỉ cần có ý tưởng có tính khả thi, mang lại tiềm năng lợi nhuận lớn, mà còn phải tuân theo những quy định của các quỹ đầu tư cũng như phải thực hiện những cam kết về phân chia lợi nhuận và chia sẻ quyền quản lý doanh nghiệp với quản lý vốn mạo hiểm.

Tại các nước có kênh lưu thông vốn mạo hiểm, mối quan hệ giữa ba đối tượng này được xử lý theo những mô hình tổ chức và hoạt động khác nhau. Một mô hình thành công là mô hình đảm bảo được những lợi ích hài hoà của cả ba đối tượng trên, nhờ đó đạt được ba mục tiêu là: (1) khuyến khích và duy trì nguồn ý tưởng sáng tạo và tinh thần kinh doanh (duy trì nhu cầu về vốn mạo hiểm), (2) tạo động lực cho người có vốn bỏ ra ĐTMH và lặp lại hành động đó (phát triển nguồn cung),

(3) phát huy triệt để năng lực đặc biệt của các nhà quản lý quỹ chuyên nghiệp (đảm bảo hiệu quả đầu tư).

2.3. Quy trình ĐTMH

2.3.1 Lựa chọn dự án

Cách thức tuyển chọn dự án

Thực chất, hiệu quả hoạt động của ĐTMH phụ thuộc vào sự thành công của các dự án đầu tư. Hay nói một cách khác, những người đầu tư và nhà quản lý sẽ

được hưởng lợi nhuận nếu những dự án công nghệ mà họ đầu tư hoạt động tốt và mang lại lợi nhuận lớn. Dự án công nghệ tốt sẽ mang lại hiệu quả cho doanh nghiệp, các nhà đầu tư và các nhà quản lý từ đó sẽ khuyến khích nhiều nhà đầu tư tham gia cung cấp vốn cho ĐTMH và nhiều doanh nghiệp muốn nhận được nguồn vốn mạo hiểm. Chính vì vậy, việc lựa chọn dự án đầu tư rất được chú trọng. Quỹ ĐTMH sẽ căn cứ vào những tiêu chí nhất định để lựa chọn các dự án đầu tư phù hợp và có hiệu quả kinh tế cao. Thường thường, những dự án được tài trợ phải có ý tưởng rõ ràng về công nghệ mới/sản phẩm mới và về thị trường.

Các tiêu chí thẩm định dự án

- Mức độ hấp dẫn của thị trường (hay quy mô thị trường)

- Tính độc đáo của sản phẩm

- Năng lực của đội ngũ quản lý

- Quy mô vốn đầu tư

- Rủi ro và lợi nhuận

2.3.2 Phân đoạn cấp vốn

Cơ chế này giải quyết mối quan hệ giữa doanh nghiệp và Quỹ ĐTMH. Quỹ ĐTMH không tài trợ một lần cho dự án mà giai đoạn đầu sẽ tài trợ một phần cho dự án, nếu công ty thấy khoản đầu tư mang lại những kết quả theo đúng nhận định/cam kết thì sẽ tiếp tục đầu tư trong giai đoạn tiếp theo. Có thể chia quá trình đầu tư đầy đủ thành 5 giai đoạn6: tài trợ vốn mồi/ươm tạo, tài trợ khởi động, tài trợ giai đoạn đầu, tài trợ mở rộng và tài trợ tăng tốc. Trong đó:

Tài trợ vốn mồi, ươm tạo (seed financing): Quỹ cấp vốn cho những doanh nghiệp để phát triển ý tưởng sáng tạo/phát minh sáng chế của mình, hoặc cấp vốn để hỗ trợ phát triển sản phẩm. Vốn cấp ở giai đoạn này thường không lớn.

Tài trợ khởi động (start-up financing): cấp vốn để phát triển sản phẩm và hoạt động tiếp thị khởi đầu. Vốn này cấp cho những công ty mới được thành lập, chưa lần nào giới thiệu sản phẩm ra thị trường. Những doanh nghiệp như vậy


6 Lawrence Rausch, 2002, tr8. Việc phân chia chỉ mang tính tương đối và tuỳ thuộc vào quyết định của từng quỹ. Phân chia càng nhỏ sẽ càng giảm mức độ rủi ro cho quỹ nhưng trong nhiều trường hợp có thể không cần thiết. Có tài liệu chỉ chia thành 3 giai đoạn tài trợ trong đó gộp thành giai đoạn khởi động và giai đoạn đầu làm một, giai đoạn mở rộng và giai đoạn tăng tốc làm một

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 04/05/2022