Bảo hộ sáng chế theo Hiệp ước hợp tác sáng chế - 12

tiếng Việt của bản mô tả sáng chế, với điều kiện nộp lệ phí nộp muộn như quy định tương đương tại luật sáng chế Nhật Bản

a.4 Trong pháp luật về xử lý đơn sáng chế có chỉ định hay chọn Việt Nam, chúng ta chưa có quy định về sửa lỗi bản dịch không đúng của đơn quốc tế. Các đơn quốc tế nộp vào giai đoạn quốc gia của Việt Nam hiện nay đều được yêu cầu nộp bản dịch tiếng Việt. Trong Hiệp ước hợp tác sáng chế, quy định này được thể hiện tại Điều 46. Tuy nhiên, vấn đề này nên được quy định chi tiết trong pháp luật quốc gia, vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền của chủ thể nộp đơn.

a.5. Chúng ta nên bổ sung quy định về xét nghiệm nhanh đơn sáng chế. Hiện nay, do nhiều lý do khách quan, việc xét nghiệm nhanh không được quy định trong pháp luật về Sở hữu trí tuệ của Việt Nam. Tuy nhiên, vì sáng chế là đối tượng bảo hộ liên quan đến công nghệ - một lĩnh vực phát triển rất nhanh trong thế giới hiện đại, đôi khi việc xét nghiệm nhanh hay chậm ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu quả khai thác công nghệ mới đó. Do vậy, nên bổ sung quy định về xét nghiệm nhanh, với một số điều kiện cụ thể và mức lệ phí phù hợp.

a.6 Quy định về hoãn công bố và xét nghiệm cũng là một quy định nên bổ sung. Cũng vì lý do việc bảo hộ sáng chế liên quan đến công nghệ - những sáng tạo tâm huyết của các nhà sáng chế. Vì một lý do nào đó, chủ sở hữu hoặc người nộp đơn chưa muốn công bố rộng rãi sáng chế của họ. Hoặc trong quá trình nghiên cứu, họ thấy công nghệ đã nộp đơn cần được bổ sung cho hợp lý hơn và hiệu quả hơn. Những quy định về hoãn công bố và hoãn xét nghiệm sẽ thực sự có ích và thúc đẩy việc nộp đơn bảo hộ sáng chế.

a.7 Bổ sung quy định hướng dẫn về việc công nhận các giải pháp là quy trình – một đối tượng được bảo hộ sáng chế - sẽ bao gồm cả các giải pháp về việc sử dụng một đối tượng đã biết theo chức năng mới. Nếu như có quy định đó, các yêu cầu bảo hộ sáng chế về việc sử dụng một đối tượng đã biết theo chức năng mới đều sẽ là đối tượng được bảo hộ. Pháp luật Việt Nam hiện nay không quy định rõ và chặt chẽ về khái niệm này, dẫn đến việc các giải pháp kỹ thuật đề

cập đến việc sử dụng một đối tượng theo chức năng mới đều không được bảo hộ ở Việt Nam trong những năm gần đây, gây ra rất nhiều thắc mắc cho các chủ thể nộp đơn sáng chế tại Việt Nam cũng như các tranh cãi trong các hội thảo, chuyên đề về bảo hộ sáng chế. Theo quan điểm của cá nhân tôi, trong giai đoạn đang phát triển hiện nay, Việt Nam rất cần du nhập những công nghệ nước ngoài bằng con đường nhận chuyển giao công nghệ hoặc nhận chuyển giao quyền sử dụng sáng chế. Muốn vậy, chúng ta cần tạo điều kiện và tạo thêm niềm tin cho các doanh nghiệp nước ngoài bằng cách đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ đối với những sáng chế của họ, có như thế họ mới sẵn lòng mang các công nghệ mới vào nước ta. Vì lý do đó, không nên hạn chế những đối tượng bảo hộ sáng chế vốn được nhiều quốc gia trên thế giới bảo hộ.


b. Nhóm kiến nghị về hoàn thiện cơ chế thực thi quyền sở hữu công nghiệp, đặc biệt là thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế

b.1. Nâng cao năng lực của hệ thống đảm bảo thực thi, bảo đảm ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm khắc mọi hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ cũng như lợi dụng nó để cạnh tranh không lành mạnh. Đào tạo và nâng cao trình độ cũng như kiến thức chuyên sâu về sở hữu trí tuệ cho các cán bộ, công chức nhà nước thuộc các cơ quan liên quan đến hoạt động sở hữu trí tuệ, bảo vệ pháp luật như cơ quan quản lý thị trường, công an kinh tế và hải quan. Các cán bộ của các cơ quan liên quan đến việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ cần được đào tạo một cách bài bản, có hệ thống, đặc biệt là cho công tác xét xử vi phạm quyền sở hữu trí tuệ.

b.2 Xây dựng một hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và giải quyết tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ thông qua toà án một cách thông dụng. Để làm được việc đó, các Tòa án Việt Nam cần chuẩn bị tốt đội ngũ thẩm phán được đào tạo về sở hữu trí tuệ, ban hành các quy định hướng dẫn xét xử các vụ án về sở hữu trí tuệ. Đối với các vụ kiện về sáng chế, cần có những tổ chức

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 162 trang tài liệu này.

hay chuyên gia có chuyên môn về lĩnh vực sáng chế đề cập do tòa án chỉ định và công nhận để thực hiện công việc liên quan phục vụ cho việc xét xử. Bên cạnh đó, cần mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án trong việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.

b.3. Phát huy vai trò của các cơ quan bảo vệ pháp luật, tạo ra sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ, có hiệu quả giữa cơ quan xác lập quyền sở hữu trí tuệ và các cơ quan bảo vệ pháp luật để giải quyết các tranh chấp và xử lý các hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, kết hợp các biện pháp xử phạt hành chính, bồi thường dân sự hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự để bảo vệ lợi ích chính đáng và khuyến khích các hoạt động sáng tạo của các nhà sáng chế, sản xuất.

Bảo hộ sáng chế theo Hiệp ước hợp tác sáng chế - 12

b.4 Tăng mức phạt vi phạm hành chính về sở hữu trí tuệ để đủ sức răn đe.

b.5 Đổi mới việc xét xử các tội phạm xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo hướng tăng nặng hình phạt.

b..6 Chú trọng tăng cường vai trò và khả năng chuyên môn của các tổ chức giám định về sở hữu công nghiệp. Ý kiến của một bên thứ ba ở vị trí độc lập có giá trị rất lớn trong việc xử lý tranh chấp về vi phạm quyền sở hữu trí tuệ. Đặc biệt, chú trọng phát triển nguồn nhân lực để đảm trách nhiệm vụ giám định sở hữu trí tuệ đối với sáng chế


c. Nhóm kiến nghị về việc thúc đẩy và khuyến khích sáng tạo công nghệ, sử dụng hệ thống bảo hộ sáng chế.

c.1 Chú trọng phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực khoa học công nghệ, xác định lĩnh vực đó là một nội dung lớn trong hệ thống giáo dục, dạy nghề.

c.2 Nâng cấp cơ sở hạ tầng cho các dịch vụ thông tin kỹ thuật: Việc nâng cấp cơ sở hạ tầng của dịch vụ thông tin liên quan tới sự phát triển công nghệ là một trong những biện pháp quan trọng của đất nước.

c.3 Thiết lập hệ thống tư vấn phân phối và khai thác các sáng chế đã được bảo hộ và thúc đẩy chuyển giao các sáng chế đó. Đây là một biện pháp rất hữu ích nếu chúng ta có chính sách quan tâm thích đáng, vì qua thực tế, có thể nhận thấy rằng có nhiều tác giả sáng chế có những ý tưởng sáng chế tốt và có khả năng áp dụng, tuy nhiên họ không có đủ tiềm lực cũng như khả năng tài chính để tự khai khác sáng chế của mình, và cũng không biết cách để đưa thông tin về sáng chế của mình đến với những nơi có thể khai thác nó. Do vậy, nên có một hệ thống tư vấn về vấn đề khai thác và phân phối sáng chế, chắc chắn số lượng sáng chế yêu cầu được bảo hộ sẽ tăng lên.

c.4 Thiết lập chính sách hỗ trợ tài chính cho các hoạt động nghiên cứu và triển khai sáng chế nếu như các sáng chế đó có lợi cho sự phát triển của đất nước như năng lượng mới, công nghệ sinh học…. Có thể triển khai các biện pháp tài trợ đặc biệt như giảm thuế theo quan điểm thúc đẩy công nghệ trong nước và đưa chúng áp dụng vào thực tế. Cũng có thể liên kết các hoạt động ngân hàng, tài chính với các cơ quan sản xuất khoa học, kỹ thuật nhằm tạo hướng tín dụng ưu tiên cho các giải pháp công nghệ mới.

c.5 Cần tăng cường hơn nữa chính sách tuyên dương và tôn vinh những người đã đóng góp vào việc khuyến khích sáng chế hoặc khoa học và công nghệ có thể hiệu quả trong việc nâng cao ý chí trong việc tiếp tục nghiên cứu của các nhà nghiên cứu. Có chính sách chăm lo điều kiện làm việc, lợi ích vật chất và tinh thầm của những người làm công tác nghiên cứu, sáng chế và ứng dụng khoa học. Đặc biệt cũng cần có chính sách khuyến khích cán bộ khoa học làm việc ở vùng sâu vùng xa.

c.6 Cần tăng cường nâng cao dân trí nói chung đối với việc phát triển khoa học công nghệ. Việc này không chỉ tiến hành trong các trường học, các buổi hội thảo chuyên ngành, mà cần phải đưa vào các hoạt động đại chúng hơn như các hội chợ, triển lãm các sản phẩm có liên quan đến việc bảo hộ sáng chế. Việc này chúng ta có thể học tập các quốc gia phát triển hàng đầu Châu Á hiện

nay là Nhật Bản và Hàn Quốc. Tất cả được tiến hành với mục đích là để nâng cao sự quan tâm của người dân tới sáng chế và hệ thống bảo hộ sáng chế.

c.7 Mở rộng hoạt động ngoại giao công nghệ, xây dựng chính sách ngoại giao thu hút công nghệ, tìm kiếm sự hợp tác quốc tế linh hoạt và có hiệu quả trong việc thu hút công nghệ.


d. Nhóm kiến nghị về quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ nói chung.


d.1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên việc xây dựng và ban hành các quy định mới cũng như sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành cần phải dựa trên cơ sở của Bộ luật dân sự và Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành và phù hợp với thông lệ quốc tế.

d.2. Cải tiến thủ tục xác lập quyền sở hữu trí tuệ theo hướng đơn giản hoá, giảm bớt các thủ tục không cần thiết, rút ngắn thời gian.

d.3 Cần phải tổ chức tốt hơn nữa công tác thông tin về sở hữu trí tuệ nói chung và đặc biệt là thông tin sáng chế. Cho đến này Cục Sở hữu trí tuệ đã xây dựng được một Trung tâm thông tin tư liệu sở hữu công nghiệp khá lớn với khoảng 30 triệu tư liệu sáng chế. Kho tư liệu này đang được khai thác phục vụ cho công tác xét nghiệm cấp bằng sáng chế, giải pháp hữu ích của Cục Sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, kho tài liệu này thực sự chưa được các doanh nghiệp khai thác đúng mức để phục vụ cho công tác triển khai và phát triển sản xuất của cơ quan, doanh nghiệp mình.

d.4. Nâng cao năng lực hiểu biết và tham gia vào hoạt động sở hữu trí tuệ nói chung của các doanh nghiệp nhằm củng cố và nâng cao giá trị các đối tượng sở hữu trí tuệ của doanh nghiệp đồng thời hạn chế các thiệt hại do tệ nạn xâm phạm quyền Sở hữu trí tuệ trong hoạt động sản xuất và kinh doanh. Việc này phải đi đôi với việc đẩy mạnh công tác truyền thông, phổ biến và hướng dẫn pháp luật nhằm từng bước năng cao hiểu biết về sở hữu trí tuệ cho doanh nghiệp

cũng như mọi tầng lớp xã hội, đặc biệt là đội ngũ trí thức, cán bộ quản lý thuộc các ngành, các cấp.

d.5. Đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ: tham gia tích cực các hoạt động của các tổ chức quốc tế, các điều ước quốc tế mà chúng ta là thành viên; mở rộng quan hệ hợp tác với các nước nhằm trao đổi thông tin tư liệu, đào tạo và nâng cao trình độ, học tập về sở hữu trí tuệ

d.6. Hoàn thiện cơ chế quản lý việc thực hiện điều ước quốc tế một cách thích hợp và có hiệu quả, cụ thể chúng ta cần phải :

+ Bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống quy phạm về quyền sở hữu trí tuệ trong pháp luật Việt Nam.

+ Cải thiện môi trường pháp lý về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ theo hướng nhà nước pháp quyền. Bảo hộ có hiệu quả quyền lợi và các lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân khi tham gia vào quan hệ sở hữu trí tuệ có các yếu tố nước ngoài nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của tất cả các chủ thể tham gia:

+ Nguyên tắc ưu tiên áp dụng các điều ước quốc tế.

Tóm lại, hoạt động sở hữu trí tuệ của Việt Nam chưa có một lịch sử lâu dài song nó đã đóng góp một sức mạnh đáng kể trong quá trình phát triển kinh tế, triển khai chương trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam. Với một chặng đường đã qua và những thử thách trước mắt, pháp luật Việt Nam về sở hữu trí tuệ nói chung và về sáng chế nói riêng ngày càng phải hoàn thiện hơn nữa để đáp ứng các yêu cầu của các điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ trong tương lai.


KẾT LUẬN


Đất nước chỉ thực sự phát triển khi chúng ta thực hiện thành công chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Muốn công nghiệp hóa và hiện đại hóa thành công, phải khuyến khích toàn xã hội phát huy tài năng, trí tuệ, chất xám, sáng tạo công nghệ trên mọi lĩnh vực, đồng thời khuyến khích việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam trên cơ sở luật pháp Việt Nam và quốc tế về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Với mục đích đó, vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sáng chế thực sự đóng đóng một vai trò quan trong trong sự phát triển kinh tề - xã hội. Đảm bảo cho quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu trí tuệ đối với sáng chế nói riêng phát triển là một yếu tố góp phần tích cực, quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế, phát triển đất nước của Việt Nam hiện nay.

Việt Nam hiện vẫn là một nước đang phát triển. Cương lĩnh xây dựng đất nước đã xác định mục đích phát triển của Việt Nam từ nay đến năm 2020 là cơ bản đưa Việt Nam thành một nước công nghiệp phát triển nhằm xây dựng đất nước dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Để làm được điều này, chúng ta cần tận dụng tốt vai trò của sở hữu trí tuệ nói chung và sở hữu trí tuệ đối với sáng chế nói riêng. Việt Nam cần chủ động và tích cực hơn trong việc hoàn thiện hệ thống luật pháp về sở hữu trí tuệ, đặc biệt chú trọng củng cố công tác thực thi quyền sở hữu trí tuệ, cũng như tích cực trong việc xây dựng các cơ chế giám sát, giải quyết tranh chấp, tham gia chủ động tích cực các điều ước quốc tế liên quan đến Sở hữu trí tuệ v.v..

Pháp luật về sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay đã, đang và sẽ từng bước tự hoàn thiện mình để phù hợp với pháp luật quốc tế, đồng thời, cũng để khẳng định vai trò của mình trong công tác bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là

quyền sở hữu trí tuệ đối với sáng chế - đối tượng bảo hộ của các sáng tạo công nghệ - chìa khóa của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sự hoàn thiện này sẽ góp phần tạo môi trường thuận lợi trong hoạt động trao đổi các tiến bộ khoa học công nghệ hiện đại trên thế giới và thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.

Trên tinh thần đó, tôi hy vọng rằng Luận văn “Bảo hộ sáng chế theo Hiệp ước hợp tác sáng chế” này sẽ đóng góp một phần vào chiến lược phát triển chung của quốc gia về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và bảo hộ sáng chế nói riêng, thông qua luận văn này các doanh nghiệp và cơ của Việt Nam có thể có nhận thức cụ thể hơn trong việc tìm kiếm việc bảo hộ các sáng chế của mình không chỉ ở Việt Nam mà còn ở các quốc gia mà mình có hoạt động kinh doanh khác, đồng thời các cơ quan quản lý về sở hữu trí tuệ sẽ hoàn thiện các quy định còn chưa phù hợp đối với các thủ tục xác lập quyền và thực thi quyền sở hữu trí tuệ đối với sáng chế nói riêng và đối với sở hữu trí tuệ nói chung.

Dù đã có những bước phát triển đáng kể trong những năm vừa qua, tuy nhiên chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tin tưởng rằng trong thời gian tới, hệ thống pháp luật về Sở hữu trí tuệ của chúng ta sẽ hoàn thiện, đáp ứng được những yêu cầu của pháp luật quốc tế. Đây là một cơ sở quan trọng cho tiến trình hội nhập của nền kinh tế nước ta, giúp nước ta nhanh chóng bắt kịp với sự phát triển của nền kinh tế thế giới.

Xem tất cả 162 trang.

Ngày đăng: 22/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí