Một nguồn đầu tư lớn khác cho hoạt động nghiên cứu triển khai là từ chính phủ. Tuy nhiên, đầu tư từ khu vực tư nhân thường có hiệu quả hơn nhiều so với đầu tư của chính phủ do các quyết định đầu tư của tư nhân thường có định hướng thị trường và do đó các quyết định này thường được đưa ra một cách nhanh chóng. Do vậy, có thể nói hệ thống sáng chế là một chất xúc tác vô cùng quan trọng để thu hút đầu tư của khu vực tư nhân vào việc tạo ra ngày càng nhiều công nghệ mới và sản phẩm mới.
1.2.6. Công nhận quyền tư hữu tài sản trí tuệ
Luật sáng chế công nhận và coi quyền sở hữu trí tuệ là quyền tài sản (tài sản vô hình). Điều này cho phép coi quyền đối với sáng chế là một tài sản có giá trị giống như bất kỳ loại tài sản nào khác và do đó nó cũng có thể được chuyển giao, để thừa kế v.v... Điều này cũng đặc biệt quan trọng trong hoạt động kinh tế hiện nay khi tài sản trí tuệ được sử dụng làm đối tượng cho một quan hệ bảo đảm về tài chính (thế chấp, cầm cố).
1.3. NHỮNG TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CÓ THỂ NẢY SINH TỪ HỆ THỐNG BẢO HỘ SÁNG CHẾ
Mặc dù hệ thống bảo hộ sáng chế có rất nhiều lợi ích như nêu ở trên nhưng hệ thống này cũng có thể gây ra những ảnh hưởng bất lợi, đặc biệt là khi hệ thống đó không được xây dựng và kiểm soát một cách có hiệu quả để cân bằng lợi ích giữa các bên liên quan.
1.3.1. Bảo hộ sáng chế có thể làm tăng chi phí tiếp cận công nghệ đối với các nước đang phát triển
Các nước đang phát triển thường phát triển nền công nghệ của mình dựa vào việc nhập khẩu công nghệ từ các nước phát triển. Hệ thống bảo hộ sáng chế mạnh có thể tác động tiêu cực tới mục tiêu phát triển thị trường công nghệ của các nước đang phát triển. Việc cấp độc quyền sáng chế sẽ cho phép các chủ sở hữu sáng chế thu được những nguồn lợi lớn từ việc cho phép
người khác sử dụng công nghệ của họ. Điều này dẫn tới các doanh nghiệp của các nước đang phát triển phải mua công nghệ với giá cao, làm tăng giá thành sản phẩm và do đó sức cạnh tranh đương nhiên bị giảm sút.
1.3.2. Bảo hộ sáng chế có thể làm ảnh hưởng tiêu cực tới nghiên cứu khoa học cơ bản
Có thể bạn quan tâm!
- Cân bằng lợi ích trong bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế - 1
- Cân bằng lợi ích trong bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế - 2
- Trong Quy Định Về Đối Tượng Và Điều Kiện Bảo Hộ
- Cân bằng lợi ích trong bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế - 5
- Trong Các Quy Định Về Bảo Vệ Quyền Đối Với Sáng Chế
Xem toàn bộ 100 trang tài liệu này.
Theo pháp luật về sáng chế ở hầu hết các nước trên thế giới, việc bộc lộ sớm một sáng chế có thể ảnh hưởng đến khả năng được bảo hộ của sáng chế đó (bị mất tính mới và không còn khả năng được cấp bằng độc quyền). Quy định này sẽ khuyến khích việc giữ bí mật thông tin (cho đến khi nộp đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền và có thể là lâu hơn) và do đó sự phát triển trong một số lĩnh vực khoa học có thể bị ảnh hưởng bất lợi do việc chia sẻ thông tin và kiến thức có ý nghĩa quan trọng trong một số lĩnh vực khoa học công nghệ liên quan đến con người (như dược phẩm, y tế, nông nghiệp v.v...). Ngoài ra, tồn tại mâu thuẫn nhất định giữa nhu cầu công bố càng sớm càng tốt trong hoạt động nghiên cứu cơ bản trong khi đó việc công bố trong hoạt động bảo hộ sáng chế lại phải tuân thủ những quy định ngặt nghèo để tránh làm cho sáng chế mất tính mới.
1.3.3. Bảo hộ sáng chế có thể làm giảm cơ hội tiếp cận sản phẩm được bảo hộ sáng chế
Bảo hộ sáng chế nhằm mang lại cơ hội thu hồi vốn đầu tư và thu lợi nhuận cho chủ sở hữu sáng chế. Với độc quyền được cấp, chủ sở hữu sáng chế có thể nâng giá bán sản phẩm nhờ vị thế thị trường độc quyền (hợp pháp) của mình và do đó người tiêu dùng có thể bị hạn chế cơ hội tiếp cận sản phẩm đó. Đặc biệt, trong những trường hợp sáng chế là thuốc chữa bệnh, điều này có thể ảnh hưởng tới cả vấn đề chăm sóc sức khoẻ cộng đồng của cả một quốc gia. Do vậy, hệ thống pháp luật cần có những sự điều chỉnh để hạn chế những tiêu cực nêu trên có thể nảy sinh.
1.4. CÂN BẰNG LỢI ÍCH - YÊU CẦU THEN CHỐT TRONG BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI SÁNG CHẾ
Bản chất công - tư và việc cân bằng lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội là mối quan tâm thường trực của nhiều xã hội. Từ hơn hai nghìn năm trước ở phương Tây, các học giả, các triết gia và các chính trị gia đã tranh cãi kịch liệt với nhau về vấn đề quyền cá nhân và trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo vệ những quyền này trong bối cảnh thúc đẩy lợi ích chung. Plato đã có lập luận chống lại tư hữu tài sản. Ông ta cho rằng điều đó sẽ làm hủy hoại nhân cách do con người bị tiêm nhiễm thói tham lam. Trong khi đó, Aristotle là người ủng hộ mạnh mẽ quyền tư hữu tài sản lại cho rằng điều này sẽ đề cao lòng tự trọng và khẳng định tư cách cá nhân của mỗi con người [9]. Hơn nữa, điều đó sẽ cho phép con người sử dụng các tài sản một cách có hiệu quả nhất.
Khi nói đến vấn đề cân bằng lợi ích, chúng ta cần đề cập tới những khái niệm cơ bản là tài sản riêng và tài sản công. Tài sản riêng là những tài sản mà có sự cạnh tranh (đối đầu) đối với chúng và chủ sở hữu tài sản này có thể ngăn cấm người khác sử dụng. Tài sản riêng thường có thể được mua bán trên thị trường. Nếu có thể thỏa thuận được giá cả cho một tài sản (hàng hóa) cụ thể trên thị trường (ví dụ như một chiếc bánh) thì quyền sở hữu hàng hóa đó có thể được chuyển giao. Tiếp theo, nếu hàng hóa đó được sử dụng (ví dụ người mua đã ăn chiếc bánh) thì những người khác đương nhiên không được ăn miếng bánh đó nữa.
Trong khi đó, tài sản công là những tài sản mà việc sử dụng chúng không chống lại việc sử dụng của những người khác và không ai có thể ngăn cấm những người khác sử dụng những tài sản này. Đèn tín hiệu giao thông, các biển hiệu đường phố, các hệ thống cống rãnh v.v... là những ví dụ cụ thể của tài sản chung.
Ai là người cung cấp tài sản công không phải là yếu tố cần quan tâm khi xác định tài sản đó là tài sản công hay tài sản riêng. Ví dụ, nhà nước cung
cấp tài sản công (ví dụ, đèn tín hiệu giao thông) và nhà nước cũng có thể cung cấp tài sản riêng (ví dụ, nhà cửa và dịch vụ y tế). Tương tự, khu vực tư nhân cũng có thể cung cấp tài sản công như các tiêu chuẩn kỹ thuật hoặc đèn tín hiệu giao thông. Ví dụ về đèn tín hiệu giao thông chứng minh cho chúng ta thấy cách mà một tài sản riêng (bóng đèn tiết kiệm điện được cấp bằng độc quyền sáng chế, điện năng được sản xuất, các cột điện được lắp đặt bởi các doanh nghiệp) trở thành tài sản công do chúng được tạo ra để cho tất cả mọi người đều có thể sử dụng. Đương nhiên, để tạo ra những tài sản công như vậy thì cần đến chi phí. Chi phí này có thể do xã hội nói chung chi trả (như trong trường hợp hệ thống đèn tín hiệu giao thông thì chi phí lấy từ nguồn ngân sách nhà nước được hình thành từ tiền thuế do người dân đóng) nhưng việc sử dụng chúng lại thuộc về tất cả những người tham gia giao thông trên những con đường có hệ thống đèn tín hiệu giao thông đó.
Vậy vấn đề đặt ra ở đây là làm sao để có được các tài sản riêng để từ đó có được các tài sản công. Câu trả lời ở một khía cạnh nào đó là phải tạo điều kiện khuyến khích phát triển tài sản riêng theo nghĩa có được tài sản riêng thì sẽ có được nguồn (chi phí, hay nói cách khác là nguồn ngân sách từ thu thuế) để phát triển nguồn tài sản công.
Tuy nhiên, vậy thì cần phải phát triển tài sản riêng như thế nào và làm sao để sự phát triển, bảo vệ tài sản riêng không triệt tiêu được lợi ích chung? Câu trả lời một phần gắn với hệ thống bảo hộ sáng chế. Hệ thống bảo hộ sáng chế không chỉ phải giải quyết mối quan hệ lợi ích công - tư (xã hội và chủ sở hữu sáng chế) mà còn phải giải quyết cả mối quan hệ lợi ích tư - tư (chủ sở hữu sáng chế và những chủ thể hoạt động sáng tạo khác).
Một trong những mục tiêu của hệ thống bảo hộ sáng chế là thúc đẩy lợi ích dài hạn của công chúng thông qua việc dành độc quyền cho chủ sở hữu sáng chế trong một thời hạn nhất định. Sau khi kết thúc thời hạn bảo hộ, sáng chế đó sẽ thuộc về công cộng và bất kỳ người nào cũng có thể sử dụng mà
không cần có sự đồng ý của chủ sở hữu nữa (thực tế thì đến lúc này sáng chế này đã trở thành "vô chủ"). Do đó, xét về dài hạn thì không có sự xung đột mà lại tồn tại mối quan hệ cộng hưởng giữa các lợi ích trong việc thúc đẩy sáng tạo và tăng khả năng tiếp cận công nghệ. Tuy nhiên, trong thời gian sáng chế được bảo hộ, có thể tồn tại xung đột lợi ích giữa chủ sở hữu và người có nhu cầu sử dụng sáng chế, với lợi ích của xã hội nói chung và lợi ích của những người có hoạt động sáng tạo trong cùng lĩnh vực. Thách thức của hệ thống sáng chế là làm sao tìm được sự cân bằng giữa lợi ích của xã hội và lợi ích của các nhà hoạt động sáng tạo khác trong khi vẫn bảo đảm được quyền lợi của chủ sở hữu sáng chế để thực sự bảo đảm được vai trò của hệ thống này.
Khi nói đến sự cân bằng lợi ích trong hệ thống bảo hộ sáng chế, một khái niệm cần được bàn tới, đó là "lợi ích xã hội". Khó có thể đưa ra một định nghĩa chính xác về lợi ích xã hội trong mối quan hệ với lợi ích của chủ sở hữu sáng chế. Ở đây người ta có thể nói tới quan hệ "con gà và quả trứng". Theo lập luận của giáo sư Xuan Li, vấn đề lợi ích xã hội trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ phụ thuộc vào tiêu chí tối đa hoá phúc lợi [15]. Việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ được cho là nhằm đáp ứng nhu cầu giải quyết các khiếm khuyết của thị trường (tức là tránh những hành vi đánh cắp, chụp giật) và đáp ứng mục tiêu khuyến khích đổi mới. Nhưng do sự lạm dụng, quyền sở hữu trí tuệ có thể có tác động tiêu cực đến phúc lợi xã hội nên chính phủ cần có những chính sách làm sao cân bằng được lợi ích của chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ với lợi ích của xã hội nói chung, trong đó có lợi ích của những người cùng có hoạt động sáng tạo trong lĩnh vực liên quan.
Như vậy, cân bằng lợi ích trong quá trình bảo hộ sáng chế có thể được hiểu là việc đưa ra những quy định trong hệ thống pháp luật để vừa bảo đảm được lợi ích của chủ sở hữu sáng chế, vừa bảo đảm được lợi ích (phúc lợi) chung của xã hội, lợi ích của các chủ thể sáng tạo khác trong từng bối cảnh cụ thể. Ở đây, cần lưu ý một điểm là các quy định mang tính cân bằng lợi ích
phải thể hiện ở hai mặt mang tính bổ sung cho nhau theo nghĩa nếu không khuyến khích lợi ích của chủ sở hữu sáng chế thì xã hội cũng không thể có lợi ích khi xã hội không có được các thành quả sáng tạo, các sản phẩm mới và ngược lại lợi ích của chủ sở hữu sáng chế cũng sẽ không được bền vững một khi không bảo đảm được lợi ích chung của xã hội.
1.5. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CƠ CHẾ CÂN BẰNG LỢI ÍCH TRONG BẢO HỘ SÁNG CHẾ TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM
1.5.1. Trên thế giới
Hệ thống bảo hộ sáng chế trên thế giới đã có lịch sử tương đối dài. Trải qua quá trình phát triển, hệ thống này đã dần được hoàn thiện và điểm nhấn đặc biệt tạo ra một mốc phát triển mới chính là sự ra đời của Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại Thế giới.
Hệ thống bảo hộ sáng chế hiện đại đầu tiên được thiết lập ở Cộng hòa Venice vào giữa thế kỷ thứ XV nhằm khuyến khích sáng tạo. Quy chế về sáng chế năm 1474 của Cộng hòa Venice đã giải thích rằng:
Xung quanh chúng ta có nhiều thiên tài, có khả năng sáng tạo và sáng chế ra những thiết bị tinh xảo… Vậy nên nếu đặt ra các quy định về các tác phẩm và thiết bị do những người đó tạo ra, để người khác khi thấy những thứ đó không thể bắt chước và lấy đi vinh dự của nhà sáng chế, thì nhiều người sẽ phát huy tài năng của mình hơn, sẽ sáng chế ra các thiết bị vô cùng hữu ích và giúp ích cho Khối thịnh vượng chung của chúng ta [11].
Tại Vương quốc Anh, từ thế kỷ thứ XIV, các quốc vương của nước Anh đã dành sự bảo hộ cho cả thợ thủ công ngoại quốc nhằm thu hút công nghệ vào nước này. Cho đến cuối thế kỷ thứ XVI, việc bán các độc quyền sáng chế, bao gồm quyền bán và quyền sản xuất hàng hóa đã mang lại một
nguồn thu lớn cho các quốc vương Anh. Trong một nỗ lực hạn chế việc bán quyền đối với sáng chế một cách thái quá, vào năm 1624, Nghị viện Anh đã ban hành Quy chế về đặc quyền, trong đó quy định về cơ sở cho các luật sáng chế hiện đại của những nước xây dựng luật quốc gia dựa trên thông luật. Quy chế này quy định về việc cấm đặc quyền chung, loại trừ một cách tối đa việc cấp bằng sáng chế ra khỏi việc cấm độc quyền này cho: "việc một mình làm ra hoặc tạo ra hàng hóa mới bằng bất cứ phương pháp nào trong phạm vi Vương quốc" và quy định bằng độc quyền sáng chế chỉ được cấp trong thời hạn tối đa là 14 năm. Vì thế, theo hệ thống thông luật của Anh, bằng sáng chế chỉ được cấp cho các sáng chế hữu ích.
Tại châu Âu lục địa, văn bản pháp luật hiện đại đầu tiên về sáng chế là Luật của Pháp ngày 7 tháng 01 năm 1791. Luật này chịu ảnh hưởng lớn của tinh thần cách mạng thời kỳ đó và trong phần lời nói đầu có nhận định rằng: "Mọi ý tưởng mới, mà việc bộc lộ hoặc phát triển chúng có thể hữu ích cho xã hội thuộc về người đầu tiên nghĩ ra, và sẽ là xâm phạm quyền thực chất của một người nếu không xem một sáng chế về kỹ thuật và hàng hóa hữu ích là tài sản của tác giả sáng chế đó" [11].
Tinh thần cách mạng tương tự và sự tôn trọng quyền con người ảnh hưởng đến luật của Pháp cũng đã tác động đến Hiến pháp của Hoa Kỳ năm 1787, trong đó tại Mục 8 quy định rằng "Quốc hội có thẩm quyền … thúc đẩy sự tiến bộ của khoa học và kỹ thuật hữu ích, bằng việc bảo đảm cho các tác giả và nhà sáng chế độc quyền đối với các tác phẩm và phát minh của họ trong một thời hạn nhất định".
Như vậy, ngay ở những văn bản pháp luật sơ khai đầu tiên về việc bảo hộ sáng chế, các nước trên thế giới đã đưa vào mục tiêu của hệ thống sáng chế đồng thời với nguyên tắc cân bằng lợi ích trong bảo hộ sáng chế, đó chính là dành sự bảo hộ cho các tiến bộ công nghệ (sáng chế) như một phần thưởng cho hành động bộc lộ thành quả sáng tạo.
Cho đến khi Hiệp định TRIPS ra đời thì ở ngay trong Hiệp định này, người ta đã dành rất nhiều điều khoản để thể hiện một cách rõ ràng hoặc ngụ ý về việc cần bảo đảm sự cân bằng giữa mục tiêu bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ với các mục tiêu tiếp cận công nghệ, bảo đảm an sinh xã hội, quyền tiếp cận văn hóa v.v... Điều 7 và Điều 8 Hiệp định khi đề cập đến nguyên tắc và mục tiêu của việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đã quy định "việc bảo hộ và thực thi các quyền sở hữu trí tuệ phải góp phần thúc đẩy việc cải tiến, chuyển giao và phổ biến công nghệ, góp phần đem lại lợi ích chung cho người tạo ra và người sử dụng kiến thức công nghệ, đem lại lợi ích xã hội và lợi ích kinh tế, và tạo ra sự cân bằng giữa quyền và nghĩa vụ" và "các thành viên có thể thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo đảm vấn đề y tế và dinh dưỡng cho nhân dân, và thúc đẩy lợi ích công cộng trong những lĩnh vực có tầm quan trọng sống còn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và công nghệ của mình, với điều kiện là các biện pháp đó không được trái với các quy định của Hiệp định này".
Với mục tiêu và những nguyên tắc được nêu ở trên, Hiệp định TRIPS đã đưa vào các quy định thể hiện rõ sự cân bằng lợi ích để bảo đảm được quyền lợi của tất cả các bên liên quan trong phạm vi một Thành viên cũng như giữa các Thành viên với nhau. Với những quy định mang tính chuẩn mực tối thiểu và mang tính bắt buộc đối với các thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới trong Hiệp định TRIPS, mặc dù pháp luật các nước có sự khác biệt nhất định thì ít nhất các quy định về hạn chế và ngoại lệ trong việc bảo hộ sáng chế ở các nước hiện nay là tương đối giống nhau.
Vấn đề cân bằng lợi ích trong quá trình bảo hộ sáng chế có thể được phân tích theo nhiều hướng tiếp cận khác nhau như theo mối quan hệ giữa lợi ích công chúng và lợi ích của chủ sở hữu sáng chế (mối quan hệ lợi ích công - tư) và mối quan hệ giữa lợi ích của chủ sở hữu sáng chế với lợi ích của các chủ thể sáng tạo khác (mối quan hệ tư - tư), theo các nội dung bảo hộ sáng chế v.v... Trong khuôn khổ của luận văn này, vấn đề cân bằng lợi ích được phân tích ở các khía cạnh liên quan đến những vấn đề sau: đối tượng và tiêu chuẩn (điều kiện)