Khái Quát Chung Về Điều Kiện Bảo Hộ Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Đối Với Sáng Chế

Thứ hai, về thời hạn bảo hộ, thời hạn bảo hộ đối với mẫu hữu ích/giải pháp hữu ích ngắn hơn so với thời gian bảo hộ sáng chế (thường là 7 đến 10 năm, tùy thuộc vào quy định của pháp luật của mỗi quốc gia).

Thứ ba, về phạm vi bảo hộ, điều này được thể hiện mỗi quốc gia mẫu hữu ích/giải pháp hữu ích chỉ được bảo hộ đối với một số lĩnh vực công nghệ và chỉ bảo hộ sản phẩm mà không bảo hộ quy trình, điều này hoàn toàn khác với sáng chế, sáng chế được pháp luật bảo hộ đối với tất cả lĩnh vực công nghệ và bảo hộ cả quy trình. Thậm chí, không phải pháp luật của tất cả các quốc gia trên thế giới đều bảo hộ mẫu hữu ích, mà chỉ có một số quốc gia có loại hình bảo hộ này. Luật SHTT Việt Nam không sử dụng thuật ngữ “mẫu hữu ích” mà sử dụng thuật ngữ “giải pháp hữu ích”, theo đó, sáng chế được bảo hộ dưới mọi hình thức cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích nếu không phải là hiểu biết thông thường và đáp ứng các điều kiện sau: (i) Có tính mới và (ii) Có khả năng áp dụng công nghiệp [3, Điều 58]. Sở dĩ pháp luật Việt Nam có quy định chính thức cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích cho sáng chế vì so với trình độ khoa học kỹ thuật của nước ta hiện nay thì tiêu chuẩn của một giải pháp kỹ thuật mới được cấp bằng độc quyền sáng chế là tương đối cao. Do đó, không phải giải pháp kỹ thuật nào khi nộp đơn yêu cầu bảo hộ cũng đáp ứng được các tiêu chuẩn để được cấp bằng độc quyền sáng chế nên việc quy định hình thức bằng độc quyền giải pháp hữu ích là biện pháp mở rộng đối tượng được bảo hộ, tạo điều kiện để các chủ thể sáng tạo có thể thu lại những thành quả lao động của mình, phù hợp với trình độ khoa học kỹ thuật của nước ta hiện nay.

1.2.3. Phân biệt sáng chế với bí mật kinh doanh

Bí mật kinh doanh được hiểu theo nghĩa chung nhất là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh. Quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh

doanh được xác lập trên cơ sở có được một cách hợp pháp bí mật kinh doanh và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh đó.

Chủ sở hữu bí mật kinh doanh là tổ chức, cá nhân có được bí mật kinh doanh một cách hợp pháp và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh đó. Bí mật kinh doanh mà bên làm thuê, bên thực hiện nhiệm vụ được giao có được trong khi thực hiện công việc được thuê hoặc được giao thuộc quyền sở hữu của bên thuê hoặc bên giao việc, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. Trong đó, sử dụng bí mật kinh doanh là việc thực hiện các hành vi: (i) áp dụng bí mật kinh doanh để sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ, thương mại hàng hoá và (ii) bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán, nhập khẩu sản phẩm được sản xuất do áp dụng bí mật kinh doanh.

Các đối tượng không được bảo hộ với danh nghĩa bí mật kinh doanh bao gồm: (i) Bí mật về nhân thân; (ii) Bí mật về quản lý nhà nước; (iii) Bí mật về quốc phòng, an ninh và (iv) Thông tin bí mật khác không liên quan đến kinh doanh.

Như vậy, có thể phân biệt sáng chế và bí mật kinh doanh qua một số tiêu chí sau:

Thứ nhất về phạm vi khái niệm: Đây có thể được xác định là điểm khác biệt đầu tiên và lớn nhất giữa sáng chế và bí mật kinh doanh, khái niệm bí mật kinh doanh có phạm vi bao quát rộng hơn rất nhiều so với nội dung của khái niệm sáng chế. Đó có thể là thông tin về danh sách khách hàng, thông tin về cơ hội đầu tư và cũng có thể là một giải pháp kỹ thuật, một đề án, giải phát kinh doanh trong tương lại...

Thứ hai, về điều kiện bảo hộ: nếu như đối với sáng chế, điều kiện được bảo hộ đối với sáng chế khi mà giải pháp kỹ thuật của sáng chế đáp ứng được tính mới, trình độ sáng tạo và khả năng áp dụng công nghiệp, còn với bí mật kinh doanh được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây: (i) Không phải là

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 99 trang tài liệu này.

hiểu biết thông thường và không dễ dàng có được; (ii) Khi được sử dụng trong kinh doanh sẽ tạo cho người nắm giữ bí mật kinh doanh lợi thế so với người không nắm giữ hoặc không sử dụng bí mật kinh doanh đó; (iii) Được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để bí mật kinh doanh đó không bị bộc lộ và không dễ dàng tiếp cận được.

1.3. Khái quát chung về điều kiện bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế

Điều kiện bảo hộ sáng chế theo pháp luật Việt Nam - 3

1.3.1. Khái niệm điều kiện bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế

Xét dưới góc độ khoa học pháp lý, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp được hiểu theo nghĩa chung nhất là bảo hộ sản phẩm trí tuệ, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể quyền sở hữu công nghiệp [32, tr.42]. Đối tượng của bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp bao gồm quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh. Người nào sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp của người khác đang trong thời gian bảo hộ mà không xin phép chủ sở hữu các đối tượng này thì bị coi là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (trừ các trường hợp có quy định riêng) và tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý theo quy định của pháp luật. Như vậy, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp bao gồm ba nội dung: Thứ nhất là ban hành các quy định của pháp luật về quyền sở hữu công nghiệp; Thứ hai là cấp văn bằng bảo hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp cho các chủ thể khác nhau khi đáp ứng các yêu cầu theo quy định (xác lập quyền); Thứ ba là bằng các phương thức, biện pháp khác nhau bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chủ văn bằng (bảo vệ quyền).

Là một bộ phận cấu thành của pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp trong hệ thống bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, pháp luật về bảo hộ

quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế đã được thiếp lập nhằm hướng tới việc thúc đẩy hoạt động sáng tạo, sáng chế trong xã hội, đồng thời nhằm ngăn chặn những vi phạm tiềm tàng, xâm hại đến các lợi ích chính đáng của nhà sáng chế. Nó như là một cơ chế độc lập quyền có thời hạn cho sở hữu sáng chế trên cơ sở đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền [44, tr. 13]. Theo đó, chủ sở hữu sáng chế được độc quyền hưởng những lợi ích về mặt kinh tế và thương mại từ việc khai thác, sử dụng sáng chế trong một giới hạn nhất định về thời gian và không gian được bảo hộ. Hay nói cách khác, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế bị giới hạn theo lãnh thổ và theo thời gian. Giải pháp kỹ thuật được cấp bằng độc quyền sáng chế sẽ không thể bị người khác khai thác, sử dụng cho mục đích thương mại trong phạm vi quốc gia bảo hộ ngoài chủ sở hữu sáng chế đó. Chủ sở hữu sáng chế có quyền khởi kiện chống lại bất kỳ người nào có hành vi khai thác sáng chế được bảo hộ độc quyền trong phạm vi quốc gia đó mà không có sự đồng ý của chủ sở hữu sáng chế. Trên một phương diện nào đó, có thể thấy rằng, bản chất của cơ chế bảo hộ độc quyền sáng chế không khác gì một loại “hợp đồng xã hội”. Trong đó, mục đích cơ bản của “hợp đồng xã hội” này là “đổi lại việc bộc lộ những ý tưởng kỹ thuật có giá trị tiềm năng được mô tả trong bằng độc quyền sáng chế, chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế bằng việc thực hiện quyền cấm người khác khai thác ý tưởng được mô tả, có thể đảm bảo cho mình độc quyền khai thác ý tưởng của mình” [46, tr. 2]. Quan hệ trao đổi này nhằm khuyến khích việc bộc lộ công nghệ giá trị, nhờ đó, thúc đẩy tiến bộ công nghệ và các tiến bộ xã hội.

Như vậy, từ nhận thức chung như trên, có thể hiểu bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế đó là việc Nhà nước với công cụ là hệ pháp luật pháp sở hữu trí tuệ xác lập quyền cho các chủ thể (có thể là cá nhân, tổ chức) đối với sáng chế và bảo vệ quyền đó, chống lại bất kỳ sự xâm hại nào của chủ thể khác (có thể là cá nhân, tổ chức).

Bảo hộ độc quyền sáng chế, xét dưới góc độ bản chất xã hội đó là một dạng hợp đồng xã hội. Trong đó, để đổi lấy việc được độc quyền khai thác và cho phép người khác khai thác sáng chế trong một thời gian nhất định, chủ sở hữu buộc phải công bố một cách công khai và đầy đủ những thông tin liên quan tới giải pháp kỹ thuật mới được yêu cầu bảo hộ. Bản chất đó luôn được thể hiện một cách nhất quán trong suốt quá trình hình thành và phát triển các quy định pháp luật về bảo hộ sáng chế trên toàn thế giới. Sáng chế không được bảo hộ vì tổn hao vật chất và sức lao động đã được bỏ ra trong quá trình nghiên cứu, chế tạo của chủ sở hữu và tác giả sáng chế. Yêu cầu của xã hội đối với nhà sáng chế dựa trên những nghiên cứu và trí tưởng tượng của mình phải đưa ra một giải pháp kỹ thuật hữu hiệu, có khả năng tạo ra bước tiến mới trong quá trình thực hiện việc làm chủ thiên nhiên của con người. Các yêu cầu này đã được khái quát hóa và được pháp luật nâng lên trở thành những chuẩn mực nhất định. Đó chính là điều kiện bảo hộ sáng chế.

Trong các công trình nghiên cứu trước đây về các quy định pháp luật liên quan đến bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, điều kiện bảo hộ sáng chế thường chỉ được xem xét dưới góc độ riêng biệt của nội dung của từng điều kiện. Trong đó, các công trình nghiên cứu đó rất ít đề cập đến khái niệm pháp lý về điều kiện bảo hộ sáng chế. Trên thực tế, có tác giả cho rằng điều kiện bảo hộ sáng chế là những chuẩn mực về mặt kỹ thuật do pháp luật quy định để xem xét khả năng xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế [44, tr. 20], theo đó, điều kiện bảo hộ sáng chế được coi như là một chuẩn mực về mặt kỹ thuật và chuẩn mực này do pháp luật quy định nhằm xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế.

Điều kiện, xét dưới góc độ ngôn ngữ học, được hiểu cái cần phải có để cho một cái khác có thể có hoặc có thể xảy ra [33, tr. 321] có nghĩa rằng điều kiện bảo hộ sáng chế được hiểu theo nghĩa sáng chế với tư cách là những giải

pháp kỹ thuật để được pháp luật bảo hộ cần phải đáp ứng được những yêu cầu, tiêu chí nhất định. Về bản chất, được hiểu đó chính là những đòi hỏi, yêu cầu của Nhà nước đối với chất lượng của giải pháp kỹ thuật, hay nói một cách khác là giá trị mà những thông tin được bộc lộ của sáng chế có khả năng mang lại cho xã hôi.

Thông thường, các điều kiện bảo hộ sáng chế thường đặt ra các yêu cầu đối với giải pháp kỹ thuật dựa trên 02 phương diện:

Thứ nhất: Trình độ phát triển của giải pháp kỹ thuật. Theo đó, sáng chế phải đạt những bước tiến nhất định so với kiến thức nhất định so với chuyên môn đã biết trong cùng lĩnh vực kỹ thuật. Đó có thể là yêu cầu về tính mới hoặc tính sáng tạo xét trong phạm vi quốc gia bảo hộ hoặc trên phạm vi toàn thế giới, tính cho đến thời điểm sáng chế được yêu cầu bảo hộ.

Thứ hai: khả năng thực hiện của giải pháp kỹ thuật trong thực tiễn. Theo đó, nội dung các ý tưởng được đề cập trong sáng chế phải có khả năng áp dụng công nghiệp theo quy định pháp luật của đa số các quốc gia trên thế giới hoặc cao hơn là yêu cầu về hữu ích của sáng chế.

Mức độ yêu cầu được đặt ra trong các điều kiện bảo hộ sáng chế có thể là khác nhau tùy thuộc vào điều kiện hoàn cảnh của từng quốc gia trên thế giới. Xu hướng hiện nay của các quốc gia trên thế giới là yêu cầu được đặt ra trong các điều kiện bảo hộ sáng chế ngày càng được quy định một cách nghiêm ngặt hơn. Phạm vi giới hạn của các đối tượng được bảo hộ sáng chế cũng được mở rộng. Bên cạnh đó, một xu hướng khác cũng đang được định hình khá rõ nét, đó là việc thống nhất hóa các quy định về điều kiện bảo hộ sáng chế ở các quốc gia khác nhau trên thế giới thông qua các công ước quốc tế mang tính chất khu vực hoặc toàn cầu về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế như công ước Paris, Hiệp ước về hợp tác bảo hộ sáng chế (PCT), Hiệp định TRIPS. Sự ảnh hưởng mạnh mẽ của các xu hướng này đã

khiến cho các quy định về điều kiện bảo hộ sáng chế luôn luôn nằm trong trạng thái động một cách tương đối [44, tr. 21].

Từ nhận thức trên, có thể hiểu điều kiện bảo hộ sáng chế là những yêu cầu, đòi hỏi của nhà nước được thể hiện trong các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ để xác lập quyền cho các chủ thể (có thể là cá nhân, tổ chức) đối với sáng chế và bảo vệ quyền đó, chống lại bất kỳ sự xâm hại nào của chủ thể khác.

Cơ sở xây dựng điều kiện bảo hộ sáng chế:

Thứ nhất, trình độ phát triển khoa học kỹ thuật của quốc gia bảo hộ và trình độ khoa học kỹ thuật thế giới

Trình độ khoa học kỹ thuật là thước đo đánh giá sự phát triển, tiến bộ về nhận thức và khả năng chinh phục của xã hội loài người. Khi khoa học chưa phát triển thì những yêu cầu đối với việc bảo hộ cũng hạn chế hơn, bởi lẽ sự nhận thức của con người chưa vượt quá được những hiểu biết thông thường. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển chung của nhân loại, yêu cầu bảo hộ đối với các sáng chế ngày càng đòi hỏi chặt chẽ, cụ thể và ở mức độ cao hơn, được ghi nhận và thể chế hóa thành pháp luật.

Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, khi mà tốc độ phát triển của khoa học kỹ thuật và hoạt động chuyển giao công nghệ trên thế giới đang diễn ra hàng ngày với tốc độ nhanh và cường độ cao, yêu cầu đặt ra đối với sáng chế không chỉ đáp ứng được tính mới mà còn phải đạt được trình độ sáng tạo so với trình độ kỹ thuật chung của thế giới. Phạm vi các đối tượng được bảo hộ sáng chế cũng ngày càng đa dạng hơn và cập nhật xu thế chung của nhân loại, các lĩnh vực mới đòi hỏi công nghệ cao như công nghệ gen, công nghệ nano…

Tuy nhiên sự phát triển kinh tế xã hội nói chung và mức độ phát triển về khoa học công nghệ ở mỗi quốc gia nói riêng là không đồng đều. Sự chênh

lệch về trình độ giữa các nước trong cùng một khu vực, giữa các Châu lục với nhau đã phần nào ảnh hưởng đến chất lượng của các nghiên cứu về sáng chế, phạm vi bảo hộ các sáng chế. Ở các nước phát triển: Mỹ, Anh, Nhật Bản… các sản phẩm sáng chế tập trung vào các ứng dụng hiện đại, tiên tiến từ internet: thương mại điện tử, giao dịch điện tử trong khi các nước kém phát triển hơn mới chỉ đang bắt đầu nghiên cứu những công nghệ cơ bản nhất của máy tính. Khoảng cách về năng lực “chất xám” giữa các quốc gia có thể là 5 năm, 10 năm hoặc hơn thế nữa. Điều đó lý giải tại sao một công nghệ tồn tại và phổ biến, phổ cập ở một quốc gia, một châu lục này nhưng phải mất rất nhiều năm sau đó người dân ở các quốc gia khác mới bắt đầu được tiếp cận. Tuy nhiên, trên thực tế, việc kết nối và chuyển giao công nghệ giữa các quốc gia còn phụ thuộc rất nhiều vào chính sách pháp luật của từng nước vào từng thời điểm. Đường lối thông thoáng, cơ chế hoạt động của các cơ quan thuộc bộ máy nhà nước đồng bộ, thống nhất sẽ tạo thuận lợi cho việc học hỏi, mua bán, sáp nhập, chuyển giao các sáng chế với chi phí thấp nhất và trong thời gian ngắn nhất.

Thứ hai, chính sách kinh tế xã hội của quốc gia là sự thể hiện ý chí, quan điểm của Nhà nước đối với sự phát triển khoa học kỹ thuật nói chung, và với sáng chế nói riêng. Tùy từng thời kỳ mà chính sách có sự thay đổi cho phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới và trình độ công nghệ trong nước. Do sự định hướng của các nhà nước khác nhau nên điều kiện bảo hộ sáng chế giữa các quốc gia cũng có sự khác biệt. Ở một số nước như Hoa Kỳ, Nhật Bản… phần mềm máy tính là đối tượng được bảo hộ sáng chế nhưng tại Việt Nam thì nhà nước ta quy định phần mềm máy tính là giải pháp kỹ thuật bị loại trừ khỏi các đối tượng được bảo hộ sáng chế.

Sự khác biệt trong quy định của pháp luật mỗi nước bắt nguồn từ nhu cầu cuộc sống, thực tiễn kinh tế xã hội cũng như trình độ dân trí của quốc

Xem tất cả 99 trang.

Ngày đăng: 07/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí