Pháp Luật Pháp Luật Quốc Tế Và Pháp Luật Các Nước Về Bảo Hộ Nhtt.

kiện đó thì chủ thể đăng ký mới có thể được công nhận là chủ sở hữu các đối tượng đó, tức là chủ thể đó đã xác lập quyền sở hữu”.

b) Điều kiện bảo hộ NHTT

Thứ nhất: Khả năng phân biệt

Khả năng phân biệt là yếu tố đầu tiên và vô cùng quan trọng khi xác định một dấu hiệu có đáp ứng các điều kiện bảo hộ đối với NHTT hay không. Nhãn hiệu thông thường cũng có điều kiện về khả năng phân biệt, tuy nhiên điểm khác biệt về khả năng phân biệt giữa nhãn hiệu thông thường và NHTT đó là khả năng phân biệt của NHTT được xem xét giữa thành viên của tổ chức là chủ sở hữu NHTT với tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó. Còn nhãn hiệu thông thường thì khả năng phân biệt là giữa cá nhân với cá nhân hoặc giữa cá nhân với tổ chức khác nhau. Như vậy khả năng phân biệt của NHTT luôn đặt trong phạm vi một tổ chức.

Hầu hết các nước trên thế giới đều lấy tiêu chí này khi xem xét một đối tượng có đáp ứng điều kiện bảo hộ hay không. Chẳng hạn như Luật nhãn hiệu của Anh quy định “NHTT là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa hay dịch vụ của thành viên của tổ chức là chủ sở hữu của nhãn hiệu đó với những người thuộc doanh nghiệp khác”.

Thứ hai: Ngoài điều kiện về khả năng phân biệt đơn đăng ký NHTT phải đáp ứng các điều kiện khác như như về chủ thể, tài liệu nộp theo đơn...

Nếu như nhãn hiệu thông thường, đánh giá khả năng phân biệt là yếu tố cần và đủ để xem xét một dấu hiệu có khả năng đăng ký được hay không thì đối với NHTT ngoài khả năng phân biệt thì còn có các điều kiện khác nữa như chủ thể phải là tổ chức và kèm theo đơn đăng ký NHTT phải có quy chế quản lý và sử dụng NHTT. Theo “Tài liệu giới thiệu về nhãn hiệu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ” của tổ chức SHTT thế giới có quy định về chủ thể của NHTT như sau: “NHTT thường thuộc sở hữu của một hiệp hội hoặc hợp tác xã mà các thành viên có thể sử dụng NHTT để tiếp thị các sản phẩm của mình.

Hiệp hội đó thường xây dựng tập hợp các tiêu chuẩn về sử dụng NHTT chẳng hạn như tiêu chuẩn về chất lượng...” [26]. Sự khác nhau này xuất phát từ bản chất của NHTT đó là phân biệt hàng hóa, dịch vụ của thành viên của tổ chức là chủ sở hữu với tổ chức, cá nhân khác không phải là thành viên của tổ chức.

Nghiên cứu pháp luật các nước và pháp luật Việt Nam, đều có một điểm chung khi đưa ra điều kiện bảo hộ đó là khả năng phân biệt. Nhưng tiêu chí để đánh giá khả năng phân biệt này không giống nhau, có nước đánh giá khả năng phân biệt dựa trên việc sử dụng hoặc có ý định sử dụng (ví dụ như Mỹ), hoặc như Việt Nam xác định một dấu hiệu có khả năng phân biệt nếu nó được tạo thành từ một hoặc một số yếu tố dễ nhận biết, dễ ghi nhớ hoặc nhiều yếu tố kết hợp thành một tổng thể dễ nhận biết, dễ ghi nhớ.

1.2.2.3. Cơ chế và việc đăng ký NHTT

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

Như trên chúng ta đã phân tích khả năng phân biệt là điều kiện bắt buộc và giống nhau trong quy định điều kiện bảo hộ NHTT của các nước. Mặc dù giống nhau trong quy định về điều kiện bảo hộ này nhưng cơ chế và việc đăng ký NHTT lại không giống nhau. Theo TS. Phùng Trung Tập thì “hiện nay trên thế giới có hai hệ thống pháp luật quy định chủ sở hữu nhãn hiệu: Hệ thống thứ nhất là hệ thống sử dụng trước (quy định bất kỳ ai sử dụng nhãn hiệu ở một nước thì đều có quyền đăng ký nhãn hiệu ở nước đó), hệ thống thức hai là hệ thống đăng ký trước (quy định bất kỳ ai có yêu cầu đầu tiên đăng ký nhãn hiệu ở một nước thì đều được quyền đăng ký)” [23]. Phần lớn các nước đều quy định việc bảo hộ NHTT dựa trên cơ sở đăng ký (trong đó có Việt Nam), tuy nhiên một số nước lại có quy định việc đăng ký bảo hộ trên cơ sở sử dụng hoặc có ý định sử dụng, và một số nước lại thành lập một cơ chế đăng ký cho cộng đồng (đăng ký nhãn hiệu hàng hoá theo thể thức CTM- THE COMMUNITY TRADEMARK), để khi đăng ký bảo hộ ở cơ quan đăng ký của cộng đồng nó sẽ được tự động bảo hộ ở tất cả các nước trong cộng đồng..

a) Bảo hộ trên cơ sở đăng ký

Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu tập thể theo luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam - 5

Cơ chế và việc đăng ký NHTT ở mỗi quốc gia là không giống nhau, có nước quy định việc bảo hộ NHTT phải dựa trên thủ tục đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền và quyền của chủ sở hữu được tạo ra bằng việc cấp bằng cho đối tượng yêu cầu đăng ký nếu đối tượng đó đáp ứng tiêu chuẩn bảo hộ. Thông qua thủ tục đăng ký cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành kiểm tra, xem xét đơn đăng ký có đáp ứng tiêu chuẩn bảo hộ hay không từ đó đưa ra kết luận bảo hộ. Trên thế giới, hầu hết các nước đều quy định việc chấp nhận hay không chấp nhận bảo hộ NHTT phải dựa trên cơ sở đăng ký.

Hình thức thể hiện: Việc công nhận quyền của chủ sở hữu dựa trên cơ sở đăng ký được các nước tiến hành (trong đó có Việt Nam) thường trải qua các giai đoạn khác nhau của quá trình thẩm định. Ban đầu là đơn được thẩm định hình thức để xem xét tính hợp lệ của đơn, sau đó đơn được công bố và cuối cùng là giai đoạn thẩm định nội dung của đơn. Giai đoạn thẩm định nội dung là giai đoạn quan trọng. Tại giai đoạn này đối tượng đăng ký sẽ được xem xét là đáp ứng tiêu chuẩn bảo hộ để cấp bằng hay không.

Lợi ích của việc đăng ký: Khi đăng ký NHTT ngoài việc thông báo cho công chúng biết mình là chủ sở hữu thì chủ sở hữu và thành viên có độc quyền sử dụng cho các sản phẩm, dịch vụ mà mình đăng ký. Khi sử dụng NHTT đã được đăng ký sẽ tạo ra tâm lý thoải mái vì được chính thức công nhận mình là chủ sở hữu NHTT này, không còn tâm trạng lo lắng, không an toàn rằng NHTT của mình trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu khác hoặc lo ngại rằng chủ thể khác có thể sử dụng NHTT của mình. Khi đăng ký NHTT và được cấp bằng, chủ sở hữu có quyền tự mình hoặc khởi kiện tại Tòa nếu NHTT của mình bị vi phạm. Căn cứ khởi kiện trong trường hợp này sẽ là giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu đã được cấp. Đây sẽ là căn cứ quan trọng tại Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu.

Hạn chế: Mất nhiều thời gian và chi phí cùng với đó là việc thẩm định sẽ không phát huy hết hiệu quả nếu như hệ thống văn bản pháp luật của một nước không có những quy định chặt chẽ và không phát huy được tác dụng trong việc đăng ký. Hơn nữa, nhiều trường hợp chủ sở hữu của NHTT sẽ không được bảo hộ quyền sở hữu của mình vì nguyên nhân nào đó mà chưa đăng ký được NHTT trước các chủ thể khác, mặc dù mình là chủ sở hữu trước đối với NHTT. Trong trường hợp này chủ sở hữu NHTT phải chứng minh quyền của mình thông qua việc chủ thể vi phạm đã có hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, việc này là khó khăn vô cùng và khả năng thành công không cao.

b) Bảo hộ không qua thủ tục đăng ký

Lợi ích của việc đăng ký như đã nói ở trên sẽ là động lực để chủ sở hữu đăng ký NHTT. Tuy nhiên, có những nước lại quy định việc đăng ký NHTT không phải là bắt buộc. Điều này có nghĩa là chủ sở hữu có thể đăng ký hoặc không đăng ký NHTT. Mỹ là nước áp dụng quy định này. Theo Luật nhãn hiệu của Mỹ thì quyền SHCN đối với NHTT có thể được xác lập trên cơ sở sử dụng NHTT hợp pháp trong thương mại ở Mỹ hoặc được đăng ký với Cơ quan sáng chế và nhãn hiệu ở Mỹ. Vậy việc không đăng ký thì quyền của chủ sở hữu được ghi nhận như thế nào. Thông thường, việc không đăng ký thì quyền của chủ sở hữu sẽ được xác lập trên cơ sở sử dụng trước. Tức là quyền của chủ sở hữu sẽ được xác lập thông qua quá trình sử dụng hợp pháp tại một nước. Có nghĩa việc bảo hộ NHTT sẽ được bảo hộ tự động nếu NHTT đó được sử dụng trong thương mại tại một nước. Nếu có tranh chấp quyền xảy ra giữa các nhãn hiệu không đăng ký hoặc giữa các nhãn hiệu không đăng ký với nhãn hiệu đăng ký thì chủ sở hữu chỉ cần chứng minh việc sử dụng trước hợp pháp của mình.

Lợi ích của cơ chế không đăng ký đó là không tốn chi phí, không mất

nhiều thời gian. Hơn nữa, nó đảm bảo sự công bằng giữa các chủ thể, bởi lẽ không phải mọi chủ thể khi đăng ký NHTT đều là chủ sở hữu và là người sử dụng trước đối với NHTT, có rất nhiều trường hợp chủ thể sử dụng trước vì lý do nào đó mà chưa tiến hành việc đăng ký NHTT của mình. Như vậy, quyền sở hữu hợp pháp của mình sẽ vì thế mà không được công nhận.

Hạn chế của cơ chế không đăng ký: Đối lập lại với cơ chế đăng ký nêu trên, việc bảo hộ NHTT không dựa trên cơ sở đăng ký sẽ không tạo ra được căn cứ pháp lý chắc chắn đối với chủ sở hữu. Khi có hành vi xâm phạm xảy ra, thay bằng việc sử dụng bằng đã được cấp, chủ sở hữu phải chứng minh việc sử dụng trước của mình. Điều này không phải lúc nào cũng dễ dàng và đảm bảo được quyền lợi của chủ sở hữu.

c) Bảo hộ trên cơ sở đăng ký nhưng không trải qua giai đoạn thẩm định nội dung.

Bên cạnh các cơ chế đăng ký NHTT giai đoạn như thẩm định hình thức và thẩm định nội dung được hầu hết các nước áp dụng. Chúng ta còn thấy có cơ chế đăng ký không qua giai đoạn thẩm định nội dung.

Đối với cơ chế đăng ký này, phần lớn các nước quy định đơn đăng ký sẽ được thẩm định hình thức và sau đó được công bố để bất kỳ bên thứ ba nào nếu thấy quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm đều có thể phản đối đơn. Mỹ là nước áp dụng hình thức này trong việc đăng ký NHTT.

Lợi ích: Tích kiệm được thời gian và chi phí.

Hạn chế: Việc không thẩm định nội dung sẽ khó khăn để đảm bảo việc thực hiện quyền một cách ổn định và an toàn. NHTT được đăng ký theo hệ thống không thẩm định nội dung sẽ không tạo ra căn cứ pháp lý vững chắc và vì thế mà các Công ty thường cảm thấy không an toàn trong việc sử dụng chúng. Ví dụ người nộp đơn đầu tiên tuyên bố việc sử dụng nhãn hiệu của mình, hiệu lực của việc đăng ký nhãn hiệu thuộc về chủ thể nào sẽ là nội dung

tranh luận tại tòa. Bảo hộ theo hình thức đăng ký cộng đồng

Là hình thức mà theo đó một số nước (như các nước trong cộng đồng chung Châu Âu) thành lập hệ thống đăng ký chung cho cộng đồng Organization for Harmonisation of International Mark (OHIM) để khi đăng ký tại cơ quan đăng ký chung của cộng đồng này sẽ có hiệu lực trên toàn bộ các nước trong Cộng đồng. Hệ thống OHIM còn áp dụng cho các nước Châu Âu ngoài khối EU khác muốn tham gia. Ngoài ra trên thế giới còn có các văn phòng SHCN khu vực như sau: Văn phòng SHCN Châu Phi (ARIPO), tổ chức SHTT Châu Phi (OAPI), văn phòng SHCN Benelux (BTO) của ba nước Bỉ, Hà Lan, Luxenbarg [22].

Lợi ích: Tích kiệm thời gian và chi phí cho việc đăng ký cho chủ sở hữu và hơn nữa quyền của chủ sở hữu sẽ được ghi nhận không chỉ ở một nước mà ở tất cả các nước trong Cộng đồng.

Hạn chế: Nếu một nước từ chối việc đăng ký bảo hộ thì buộc chủ đơn phải chuyển đổi thành đơn quốc gia khác mà tại đó đơn không bị từ chối.

Hiện nay chỉ duy nhất có Cộng đồng chung Châu Âu áp dụng hình thức đăng ký NHTT theo cơ chế này. Từ kinh nghiệm và thực tế hoạt động của Cộng đồng cho thấy rằng đây là hình thức mang lại nhiều lợi ích và tích kiệm thời gian, chi phí cho chủ sở hữu.

Các cơ chế đăng ký như đã nêu ở trên đều có những ưu điểm và nhược điểm, việc lựa chọn hình thức nào là tùy thuộc vào điều kiện thực tế của mỗi nước. Thông thường, đối với các nước kinh tế chưa hoặc đang phát triển, thì chọn cơ chế đăng ký bảo hộ (ví dụ như Việt Nam), đối với các nước có sự phát triển đồng đều theo một khối chung như Cộng đồng chung Châu Âu sẽ chọn hình thức đăng ký theo thể thức Cộng đồng...

1.3. Pháp luật pháp luật quốc tế và pháp luật các nước về bảo hộ NHTT.

1.3.1. Pháp luật quốc tế về bảo hộ NHTT

1.3.1.1. Quy định của tổ chức SHTT thế giới WIPO

a) Khái niệm

NHTT thường được định nghĩa là các dấu hiệu phân biệt nguồn gốc địa lý, nguyên vật liệu, mô hình sản xuất hoặc các đặc tính chung khác của hàng hóa hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác nhau cùng sử dụng NHTT. Chủ sở hữu có thể là hiệp hội mà các doanh nghiệp là thành viên hoặc chủ thể khác là một tổ chức công hoặc một hợp tác xã.

b) Dấu hiệu được sử dụng làm NHTT

Dấu hiệu được sử dụng làm NHTT là dấu hiệu phân biệt nguồn gốc địa lý, nguyên vật liệu, mô hình sản xuất...của hàng hóa, dịch vụ. Không giống như một số nước quy định dấu hiệu được sử dụng làm NHTT chỉ đơn thuần là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các chủ thể khác nhau, WIPO chỉ rõ đó là các dấu hiệu phân biệt nguồn gốc địa lý, nguyên vật liệu, mô hình sản xuất hoặc các đặc tính khác của hàng hóa, dịch vụ.

c) Điều kiện bảo hộ và cơ chế đăng ký.

Ngoài việc quy định đơn đăng ký NHTT nộp kèm theo bản sao quy chế điều chỉnh việc sử dụng NHTT, WIPO không đưa ra các quy định cụ thể đối với điều kiện bảo hộ và cơ chế đăng ký. Các quy định này do từng nước quyết định phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi nước.

WIPO cũng nêu ra việc sử dụng một NHTT (của một hợp tác xã hoặc một hiệp hội các doanh nghiệp) cho phép các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thành viên hưởng lợi từ uy tín đạt được trên cơ sở xuất xứ chung hoặc các đặc điểm chung khác của hàng hóa hoặc dịch vụ cung cấp bởi các doanh nghiệp khác nhau. Điều này đặc biệt quan trọng khi xuất xứ hoặc các đặc điểm chung khác là yếu tố chính để xác định chất lượng hoặc thị hiếu tốt đối với một sản phẩm hoặc dịch vụ. Việc sử dụng một NHTT có thể phát triển một liên minh hoặc hỗ trợ sự hợp tác với các doanh nghiệp vừa và nhỏ khác nhằm tận dụng tối đa

lợi thế của các nguồn chung.

Quy định được nêu ra của WIPO phù hợp với quy định của nhiều nước và là cơ sở để các nước xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về NHTT.

WIPO cũng đưa ra trường hợp thực tế của Peru để thấy được vai trò của NHTT cho phép các thành viên hưởng lợi từ uy tín đạt được trên cơ sở xuất xứ chung hoặc các đặc điểm chung khác của hàng hóa hoặc dịch vụ.

“Giá trị của một cái tên”

Matildo Pérez, một nông dân từ một cộng đồng làng xã trên đỉnh cao của ngọn núi Lima, đã quyết định nộp đơn đăng ký nhãn hiệu "Chirimoya Cumbe” (Chirimoya là một loại trái cây mọc ở vùng Andes của Peru và Ecuador; Cumbe là tên của một thung lũng ở Peru, nơi chirimoya phát triển) đến Viện quốc gia và SHTT Peru (INDECOPI). Ông đã nộp đơn cho riêng mình, mặc dù đây là không phải là trường hợp thông thường. Đơn của ông đã bị từ chối với lý do là thực tế là đây là tên chung và không thể cấp cho một người duy nhất và không thể có độc quyền trong tên chung.

Sau khi bị từ chối đơn, một thời gian sau Matildo đã quay trở lại INDECOPI, lần này với một phái đoàn đứng đầu là Phó Thị trưởng của Cumbe, đến gặp trưởng phòng của Văn phòng dấu hiệu phân biệt của INDECOPI.

Đọc giấy ủy quyền nhân viên của INDECOPI mỉm cười với sự hài lòng: người của Cumbe, tụ tập với nhau trên quảng trường chính, đã trao quyền Don Matildo Pérez để đăng ký nhãn hiệu hàng hoá. Nó có vẻ hoàn toàn đáng kinh ngạc: cộng đồng đã hiểu đầy đủ cho đăng ký nhãn hiệu và trao cho họ độc quyền trong việc sử dụng của tên Cumbe. Tuy nhiên, như các quan chức nói với họ, "Chirimoya Cumbe" là trong thực tế tên gọi xuất xứ, không phải là một nhãn hiệu, thứ hai nó là một tên gọi có nguồn gốc từ Peru, bởi vì các thung lũng của Cumbe là một khu vực địa lý cung cấp cho một số đặc tính đặc biệt cho các Chirimoya. Và họ trở lại ngôi làng của họ.

Tuần sau, họ lại một lần nữa tại văn phòng, tuy nhiên lần này quan

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 22/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí