nào cũng thể hiện rõ chủ sở hữu, nơi sản xuất...do đó khi người tiêu dùng nhận biết được NHTT đối với sản phẩm, dịch vụ của một chủ thể nhất định thì lúc đó NHTT đã đạt được chức năng phân biệt sản phẩm, dịch vụ của mình. Đó cũng là chức năng phân biệt của NHTT.
Không giống như nhãn hiệu thông thường chức năng phân biệt được thể hiện ở phạm vi là giữa các tổ chức, cá nhân khá nhau. NHTT có chức năng phân biệt sản phẩm, dịch vụ của các thành viên thuộc tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu với sản phẩm, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân không thuộc tổ chức đó. Như vậy, chức năng phân biệt của NHTT có một đặc điểm riêng đặc trưng của nó đó là phạm vi phân biệt ở đây được xem xét giữa các thành viên của một tổ chức là chủ sở hữu NHTT đối với các tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó.
Chỉ dẫn địa lý (cũng là một đối tượng được bảo hộ quyền SHCN) có chức năng phân biệt sản phẩm có nguồn gốc từ địa danh được bảo hộ với sản phẩm cùng loại có nguồn gốc từ địa danh khác. Khác biệt với chỉ dẫn địa lý, đối với trường hợp NHTT không gắn với địa danh cụ thể thì trong cùng một địa phương có thể có nhiều tổ chức đại diện cho tập thể, cá nhân khác nhau, bởi vậy cũng có thể có nhiều NHTT, nhưng chỉ có duy nhất một chỉ dẫn địa lý cho một loại sản phẩm trong một địa phương. Như vậy, khi sản phẩm của một địa phương chưa đủ các yếu tố cần thiết để bảo hộ chỉ dẫn địa lý, thì bảo hộ NHTT là một công cụ hữu hiệu để nâng cao khả năng cạnh tranh của tập thể doanh nghiệp này so với tập thể doanh nghiệp khác.
b) Chức năng thông tin về hàng hóa, dịch vụ
NHTT có chức năng thông tin gián tiếp về sản phẩm hay dịch vụ. “Nhìn vào NHTT, người tiêu dùng có thể nghĩ đến nguồn gốc, chất lượng, giá cả của sản phẩm, dịch vụ. Họ biết được sản phẩm được chế tạo bằng vật liệu gì hay dịch vụ có tốt không và quan trọng hơn là nó phù hợp với nhu cầu của họ và họ
cũng hoàn toàn tin tưởng vào sản phẩm hay dịch vụ mang NHTT đó. Chính vì thế mà nó có chức năng thông tin gián tiếp về sản phẩm hay dịch vụ” [30].
Cũng giống như chức năng nói trên, chức năng thông tin về sản phẩm dịch vụ được thể hiện bởi đặc điểm đặc trưng của NHTT đó là thông tin cho cho các sản phẩm, dịch vụ của các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu NHTT đó, nó không đơn thuần là thông tin cho tổ chức, cá nhân nhất định. Vì thế, danh tiếng mà NHTT đem lại cho các chủ thể là thành viên của tổ chức sẽ có phạm vi lớn hơn.
Do người tiêu dùng có thể sử dụng NHTT để nhận biết loại hàng hóa, dịch vụ sẽ thỏa mãn nhu cầu của họ. Do đó, việc sử dụng của người tiêu dùng có khuynh hướng khuyến khích chủ sở hữu nhãn hiệu duy trì chất lượng ổn định cho hàng hóa và dịch vụ được chào bán dưới dạng NHTT của họ.
Trong kinh doanh, giá trị cố hữu trong việc giành được sự trung thành của người tiêu dùng đối với một NHTT cụ thể thông qua việc duy trì chất lượng ổn định của sản phẩm, được xem như là “danh tiếng” đi kèm với NHTT. Người tiêu dùng sử dụng thông tin về nguồn gốc cũng như chất lượng có thể tin được của sản phẩm để củng cố quyết tâm mua hàng của mình.
c) Chức năng quảng cáo
Một chức năng đặc biệt quan trọng của NHTT là sử dụng chúng để tiếp thị hay quảng cáo sản phẩm, dịch vụ vì nhãn hiệu là một cách thức cô đọng để chỉ sản phẩm, dịch vụ. Điều này dựa vào khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của NHTT đối với người tiêu dùng. Theo ông Trần Lê Hồng – Giám đốc trung tâm thông tin Cục sở hữu trí tuệ cho biết: “Việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu cho phép doanh nghiệp có thể tối đa hóa sự khác biệt của sản phẩm, quảng cáo và tiếp thị để từ đó nâng cao khả năng nhận biết sản phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp tại các thị trường quốc tế đồng thời thiết lập mối liên hệ trực tiếp với khách hàng nước ngoài” [14]. Chúng ta xem xét đối với
trường hợp NHTT của “Vinataba” cho sản phẩm “Thuốc lá điếu”. Trên các phương tiện thông tin đại chúng bây giờ chỉ cần xuất hiện chữ “Vinataba” là chúng ta biết ngay được đó là của Tổng Công ty thuốc lá Việt Nam và cho sản phẩm “Thuốc lá điếu”. Và như vậy Vinataba đã hoàn thành được chức năng quảng cáo của mình. Hiện nay, Vinataba không chỉ dừng lại ở NHTT mà nó đã trở thành nhãn hiệu nổi tiếng được nhiều người biết đến. Đây có thể là một trong những ví dụ điển hình của sự thành công trong việc xây dựng thương hiệu và kinh doanh.
Một ưu điểm của chức năng quảng cáo của NHTT so với nhãn hiệu thông thường đó là NHTT không chỉ có chức năng quảng cáo cho một tổ chức hay cá nhân nhất định (như đối với nhãn hiệu thông thường) mà chức năng quảng cáo của NHTT ở đây là cho tất cả các thành viên của tổ chức (có thể tổ chức, cá nhân) là chủ sở hữu NHTT đó. Vì thế, danh tiếng mà NHTT đem lại cho các thành viên sử dụng NHTT sẽ có phạm vi rộng hơn.
1.2. Khái niệm, các nội dung cơ bản của bảo hộ NHTT
1.2.1. Khái niệm bảo hộ NHTT
Trước tiên để hiểu thế nào là bảo hộ NHTT chúng ta cần hiểu khái niệm “Bảo hộ” là gì. Xung quanh khái niệm “bảo hộ” có rất nhiều các quan điểm khác nhau. Bảo hộ được hiểu theo nghĩa thông thường là sự “che chở, không để bị tổn thất”.
Bên cạnh thuật ngữ bảo hộ, chúng ta cũng thường gặp cụm từ “Bảo vệ”. “Bảo vệ” là “chống lại mọi sự huỷ hoại, xâm phạm để giữ cho được nguyên vẹn” [27]. Như vậy, “Bảo hộ” có khác so với “Bảo vệ” hay không và nếu chúng khác nhau thì sẽ khác nhau ở những điểm nào. Chúng ta xem xét chúng trên lĩnh vực SHTT qua các phương diện chủ thể thực hiện hành vi và cách thức thực hiện hành vi...
Bảo hộ quyền SHTT | Bảo vệ quyền SHTT |
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu tập thể theo luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam - 1
- Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu tập thể theo luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam - 2
- Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu tập thể theo luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam - 3
- Pháp Luật Pháp Luật Quốc Tế Và Pháp Luật Các Nước Về Bảo Hộ Nhtt.
- Quy Định Về Nhtt Của Công Ước Paris
- Lịch Sử Hình Thành Và Phát Triển Của Pháp Luật Về Bảo Hộ Nhtt Ở Việt Nam
Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.
Nhà nước | Chủ sở hữu, cơ quan nhà nước có thẩm quyền. | |
Cách thức thực hiện | Nhà nước thực hiện rất nhiều hành vi khác nhau từ thực hiện thủ tục xác lập quyền, quản lý nhà nước đến xác định hành vi vi phạm và quy định biện pháp xử lý hành vi vi phạm. | Chủ sở hữu có quyền yêu cầu chủ thể có hành vi vi phạm dừng ngay hành vi vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi vi phạm |
Kết quả thực hiện | Được xác nhận bằng văn bản chính thức của cơ quan nhà nước | Chủ thể vi phạm sẽ tự nguyện dừng hành vi vi phạm theo yêu cầu của chủ sở hữu hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý. |
Trước khi Hiệp định TRIPs ra đời, khái niệm bảo hộ quyền SHTT thường được hiểu theo nghĩa hẹp tức là bảo hộ quyền SHTT chỉ bao gồm việc xác lập quyền của chủ sở hữu đối với các đối tượng quyền SHTT mà nó không bao gồm việc thực thi quyền. Khi Hiệp định TRIPs có hiệu lực thi hành, tại Điều 3, Điều 4, phụ lục của TRIPs quy định “thuật ngữ bảo hộ phải bao gồm các vấn đề ảnh hưởng đến khả năng đạt được, việc đạt được, phạm vi, việc duy trì hiệu lực và việc thực thi quyền SHTT cũng như các vấn đề ảnh hưởng đến việc sử dụng quyền SHTT được quy định trong Hiệp định”. Với quy định của Hiệp định thì bảo hộ không chỉ dừng lại ở việc xác lập quyền mà bao gồm trong đó cả việc thực thi quyền.
Vì vậy, khái niệm bảo hộ quyền SHTT sẽ được hiểu theo hai nghĩa,
theo nghĩa hẹp thì bảo hộ quyền SHTT là hoạt động, theo đó, Nhà nước ban hành các quy phạm pháp luật nhằm xác lập quyền sở hữu của các chủ thể đối với tài sản trí tuệ. Hiểu theo nghĩa rộng thì khái niệm bảo hộ quyền SHTT là hoạt động, theo đó, Nhà nước ban hành các quy phạm pháp luật nhằm xác lập và thực thi quyền sở hữu của các chủ thể đối với tài sản trí tuệ. Như vậy, hoạt động bảo hộ quyền SHTT của Nhà nước sẽ thể hiện trên hai phương diện. Phương diện thứ nhất là xây dựng pháp luật nhằm xác lập quyền sở hữu của sở hữu chủ đối với tài sản trí tuệ và phương diện thứ hai là thực thi pháp luật về bảo hộ quyền SHTT.
Để hiểu rõ hơn, chúng ta sẽ phân tích khái niệm bảo hộ trên góc độ dân sự và kinh tế.
“Nếu phân tích từ góc độ pháp luật dân sự, bảo hộ quyền SHTT là củng cố và xác lập quyền sở hữu của mình đối với tài sản trí tuệ (gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt) của các chủ sở hữu đối với tài sản trí tuệ” [29].
Nếu phân tích từ góc độ kinh tế thì bảo hộ quyền SHTT là tất cả các biện pháp được áp dụng nhằm đảm bảo cho các chủ sở hữu được khai thác các giá trị của tài sản trí tuệ, phục vụ cho nhu cầu của chủ sở hữu và các đối tượng khác có liên quan. Nếu phân tích từ góc độ này thì giá trị mà các tài sản trí tuệ đem lại sẽ là các lợi ích vật chất được tạo ra và thông thường đây là chính là lợi ích chính mà các chủ sở hữu muốn đạt được
Giáo trình Luật SHTT của trường Đại học Luật Hà Nội cũng có đưa ra khái niệm bảo hộ quyền SHTT như sau: “Bảo hộ quyền SHTT là việc nhà nước ban hành các quy định của pháp luật về quyền SHTT nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể quyền SHTT như tác giả, chủ sở hữu văn bằng bảo hộ và những chủ thể khác liên quan đến việc sử dụng quyền SHTT” [18].
Trong luận văn thạc sỹ sẽ đề cập đến khái niệm “Bảo hộ” theo nghĩa hẹp tức là “Bảo hộ NHTT là việc nhà nước thông qua các quy định của pháp luật nhằm xác lập quyền của chủ sở hữu đối với NHTT”.
1.2.2. Những nội dung cơ bản của bảo hộ NHTT
1.2.2.1. Dấu hiệu được sử dụng làm NHTT
a) Khái niệm dấu hiệu
Như trên đã phân tích khái niệm NHTT thường được hiểu là dấu hiệu dùng để phân biệt sản sản phẩm, dịch vụ của các cá nhân, tổ chức là thành viên của tổ chức là chủ sở hữu NHTT với cá nhân, tổ chức không phải là thành viên của tổ chức. Nhưng không phải bất cứ dấu hiệu nào đều có thể được sử dụng làm NHTT mà các dấu hiệu đó phải thể hiện tính độc đáo sao cho có khả năng phân biệt sản phẩm này với sản phẩm khác. “Độc đáo” ở đây thể hiện trên hai yếu tố đó là “khác biệt” và “không thông dụng” [35]. Dấu hiệu này có thể là dấu hiệu nhìn thấy được như là dấu hiệu từ ngữ, hình ảnh...hoặc dấu hiệu không nhìn thấy được như dấu hiệu mùi vị, âm thanh...Việc quy định khác nhau phụ thuộc và điều kiện thực tế của mỗi nước. Nhưng nhìn chung những quy định này đều tạo ra khung pháp lý cơ bản để mỗi chủ thể thực hiện được quyền của mình trong việc đăng ký bảo hộ các đối tượng quyền SHCN nói chung và NHTT nói riêng.
Để hiểu rõ hơn dấu hiệu được sử dụng làm NHTT là như thế nào, chúng ta cần hiểu khái niệm “dấu hiệu” là gì?
Chúng ta đã có một định nghĩa được thừa hưởng từ thời Trung thế kỉ của các nhà Kinh viện (các tu sĩ công giáo, vốn là tầng lớp duy nhất có học thức ở thời đại ấy); đó là Aliquid stat pro aliquo. Theo quan điểm của aliquid stat pro aliquo thì “dấu hiệu là một cái đứng thay (hay đại diện) cho một cái gì khác”[13]. Từ thời Trung thế kỉ, các tu sĩ công giáo đã có quan niệm rằng “dấu hiệu” là cái đại diện cho một cái gì khác, tức là sự tồn tại của dấu hiệu không phải để chứng minh cho chính bản thân nó mà sự tồn tại của dấu hiệu
để thay thế hay diễn tả cho một cái gì khác.
Quan điểm của tu sĩ công giáo thời bây giờ được ghi nhận và lưu truyền rộng rãi. Từ quan điểm về “dấu hiệu” nêu trên, chúng ta có thể thấy được dấu hiệu được sử dụng làm NHTT là tổng hợp các yếu tố (bao gồm cả từ ngữ, hình ảnh, màu sắc... hoặc sự kết hợp của chúng) đại diện cho NHTT mà thông qua đó chúng ta có thể nhận biết được NHTT.
b) Phân loại dấu hiệu
Có rất nhiều cách để phân loại dấu hiệu được sử dụng làm NHTT, ví dụ như phân loại dựa trên đặc điểm, dựa trên cách thức thể hiện...Tuy nhiên, để phù hợp với các nước trên thế giới và Việt Nam nên việc phân loại dấu hiệu được sử dụng làm NHTT được đề cập đến trong luận văn sẽ dựa trên sự nhận biết dấu hiệu chẳng hạn dấu hiệu nhìn thấy được (dấu hiệu nhận biết bằng thị giác) và dấu hiệu không nhìn thấy được (dấu hiệu nhận biết bằng thính giác, dấu hiệu nhận biết bằng khứu giác...)
Dấu hiệu nhìn thấy được (nhận biết bằng thị giác) như dấu hiệu là từ ngữ, hình ảnh, màu sắc hoặc sự kết hợp của chúng mà chúng ta có thể nhận biết được bằng mắt. Trong việc đăng ký bảo hộ NHTT thì dấu hiệu này chiếm một số lượng lớn và phổ biến “trên thế giới, dấu hiệu từ ngữ chiếm khoảng 80% toàn bộ số nhãn hiệu được sử dụng” vì là dấu hiệu dễ dàng nhận biết và việc thẩm định cũng đơn giản hơn so với các dấu hiệu khác. Chính vì lý do này mà đối với các nước chưa đủ khả năng tiến hành thẩm định hoặc kỹ thuật lập pháp chưa cao (trong đó có Việt Nam) thường quy định dấu hiệu được sử dụng làm NHTT chỉ là dấu hiệu nhận biết bằng thị giác.
Dấu hiệu không nhìn thấy được là dấu hiệu nhận biết bằng thính giác như dấu hiệu âm thanh ví dụ như tiếng chuông điện thoại NOKIA...Trên thế giới trong việc đăng ký bảo hộ NHTT thì dấu hiệu này được coi là dấu hiệu không thông dụng. Không giống như dấu hiệu từ ngữ, hình ảnh...dấu hiệu âm thanh thường khó để nhận biết. Các nước khi sử dụng dấu hiệu này thường là
các nước có kỹ thuật lập pháp cao ví dụ như Mỹ, Anh...; và
Dấu hiệu nhận biết bằng khứu giác như dấu hiệu mùi vị. Cũng giống như dấu hiệu âm thanh, dấu hiệu mùi vị cũng được coi là dấu hiệu không thông dụng vì khả năng nhận biết của loại dấu hiệu này.
Ngoài ba dấu hiệu được nhận biết nêu trên còn một số dấu hiệu được nhận biết bằng các giác quan khác chẳng hạn như bằng vị giác...Tuy nhiên, hiện nay trên thế giới chỉ tồn tại ba loại dấu hiệu có thể được sử dụng làm NHTT nêu trên.
Việc lựa chọn dấu hiệu nào được sử dụng làm NHTT là do quy định của mỗi nước, phù hợp với điều kiện của từng nước. Ở Việt Nam, kỹ thuật lập pháp chưa cao, trình độ của thẩm định viên còn hạn chế, nên Luật SHTT và các văn bản hướng dẫn thi hành chỉ quy định dấu hiệu được sử dụng làm NHTT chỉ là dấu hiệu nhận biết bằng thị giác. Trong khi đó Mỹ, Anh quy định dấu hiệu được sử dụng làm NHTT ngoài dấu hiệu nhận biết bằng thị giác thì còn có cả dấu hiệu nhận biết bằng thính giác và khứu giác.
1.2.2.2. Điều kiện bảo hộ NHTT
a) Khái niệm điều kiện bảo hộ NHTT
Trong các đối tượng của quyền SHTT, chúng ta thường hay nhắc đến điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu, sáng chế hay kiếu dáng công nghiệp. Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể hiểu đúng và đầy đủ điều kiện bảo hộ là gì?
Nếu phân tích chi tiết từng từ của cụm từ “Điều kiện bảo hộ” nêu trên chúng ta thấy theo từ điển tiếng Việt thì “Điều kiện” được hiểu là “cái cần phải có để cho một cái khác có thể có hoặc có thể xảy ra” [28]. “Bảo hộ” là việc nhà nước thông qua các quy định của pháp luật nhằm xác lập quyền của chủ sở hữu đối với NHTT.
Như vậy, từ những phân tích nêu trên chúng ta có thể thấy điều kiện bảo hộ đối với NHTT là “những yêu cầu mà Nhà nước đặt ra đối với nội dung và hình thức của NHTT, đòi hỏi NHTT đăng ký phải đáp ứng các điều