BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập của các thành viên trong xã hội theo chiều dọc và chiều ngang (hay theo không gian và thời gian).
Phân phối theo chiều dọc và sự phân phối giữa những người khỏe mạnh cho những người ốm đau, bệnh tật; giữa những người trẻ cho người già; giữa những người không sinh đẻ và người sinh đẻ; giữa những người có thu nhập cao và người có thu nhập thấp… Nói cách khác, đây là sự phân phối lại thu nhập theo không gian. Thực hiện nguyên tắc phân phối theo chiều dọc này, quỹ BHXH ngoài việc được hình thành từ sự đóng góp của người lao động, còn hình thành từ sự đóng góp của người sử dụng lao động và có thể còn được bù dắp sự thiếu hụt bằng Ngân sách Nhà nước. Đến lượt mình, quỹ BHXH lại được sử dụng để thay thế hoặc bù đắp thu nhập cho người lao động bị mất, giảm khả năng lao động hoặc mất việc làm…
Phân phối theo chiều ngang là sự phân phối của chính bản thân người lao động theo thời gian, là sự phân phối lại thu nhập của quá trình làm việc và quá trình không làm việc. Khi thực thi chính sách BHXH cũng tức là sử dụng nguồn tài chính chung của một bên là những người đóng góp đều đặn vào quỹ BHXH, còn bên kia là những người được hưởng theo quy định.
Mục tiêu cơ bản của BHXH là nhằm đảm bảo an toàn – hiệu quả xã hội.
BHXH là quá trình tổ chức sử dụng thu nhập cá nhân và tổng sản phẩm trong nước để thỏa mãn nhu cầu an toàn kinh tế của người lao động và an toàn xã hội. BHXH thực hiện nhằm các mục tiêu: thay thế hoặc bù đắp cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ và gia đình; chăm sóc sức khỏe và chống lại bệnh tật; bảo đảm điều kiện sống tối thiểu để người lao động không lâm và cảnh túng quẫn, góp phần bảo đảm hạnh phúc gia đình và an toàn xã hội.
BHXH hoạt động dựa trên nguyên tắc có đóng, có hưởng.
Quỹ BHXH hình thành các nguồn tài chính từ các khoản đóng góp của các bên tham gia và có một hệ thống hoạt động nhằm bảo đảm lợi ích cho người lao động tham gia đóng góp vào quỹ này. Quyền được hưởng trợ cấp
BHXH được bảo đảm bởi chính việc đóng góp vào quỹ BHXH. Nói cách khác, người lao động muốn được hưởng chế độ BHXH thì cần phải tham gia đóng góp vào quỹ này theo quy định của pháp luật. [3, Tr.10-13].
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo hiểm xã hội của Nhật Bản và một số gợi ý chính sách cho Việt Nam - 1
- Bảo hiểm xã hội của Nhật Bản và một số gợi ý chính sách cho Việt Nam - 2
- Những Nhân Tố Ảnh Hưởng Tới Việc Xây Dựng Và Thực Hiện Các Chế Độ Bảo Hiểm Xã Hội
- Quá Trình Hình Thành Và Phát Triển Của Bhxh Nhật Bản
- Các Chế Độ Cơ Bản Của Bảo Hiểm Xã Hội Nhật Bản
Xem toàn bộ 102 trang tài liệu này.
1.1.3. Vai trò bảo hiểm xã hội
1.1.3.1. Đối với người lao động
Trong cuộc sống hàng ngày, mọi rủi ro đều có thể xảy ra đối với bất cứ người lao động nào, tại bất cứ thời điểm nào và gây cho họ những khó khăn cả về vật chất và tinh thần, gây mất hoặc giảm thu nhập. Là một trong những chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước, BHXH góp phần trợ giúp cho người lao động gặp phải rủi ro khắc phục những khó khăn thông qua các khoản trợ cấp BHXH. Tham gia BHXH còn giúp người lao động nâng cao hiệu quả trong chi dùng cá nhân, giúp họ tiết kiệm được những khoản tiền nhỏ, đều đặn để có nguồn dự phòng cần thiết chi dùng khi già cả hay mất sức lao động… Đó không chỉ là nguồn hỗ trợ vật chất mà còn là nguồn động viên tinh thần to lớn đối với mỗi cá nhân khi gặp khó khăn, làm cho họ ổn định về tâm lý, giảm bớt lo lắng khi ốm đau, tai nạn, tuổi già… Nhờ có BHXH, cuộc sống của những thành viên trong gia đình người lao động, nhất là trẻ em, những người tàn tật, góa bụa… cũng được đảm bảo an toàn hơn.
1.1.3.2. Đối với tổ chức sử dụng lao động
BHXH giúp các tổ chức sử dụng lao động nói chung, các doanh nghiệp nói riêng, ổn định hoạt động sản xuất, kinh doanh thông qua việc phân phối các chi phí của người lao động một cách hợp lý. Nếu không có BHXH, khi người lao động gặp các rủi ro, không có nguồn thu nhập, không có tài chính để trang trải các chi phí y tế và các chi phí khác dẫn đến đời sống của họ bị ảnh hưởng, chất lượng lao động cũng sẽ bị ảnh hưởng và tất yếu sẽ kéo theo hệ quả năng suất lao động giảm.
BHXH góp phần làm cho lực lượng lao động trong mỗi đơn vị ổn định, sản xuất kinh doanh được liên tục, hiệu quả, các bên trong quan hệ lao động gắn bó với nhau hơn. BHXH tạo điều kiện để người tổ chức sử dụng có trách nhiệm với người lao động, không chỉ khi người lao động còn đang tham gia lao động mà ngay cả khi người lao động đã già yếu, không còn khả năng tham gia lao động nữa. Qua đó, người lao động gắn kết bền chặt hơn với người sử dụng lao động và chất lượng lao động cũng được đảm bảo. Mặt khác, BHXH giúp các tổ chức sử dụng lao động ổn định nguồn chi, ngay cả khi các rủi ro lớn xảy ra cho người lao động.
1.1.3.3. Đối với nền kinh tế - xã hội
Với tư cách là một trong những chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước, BHXH giải quyết những “trục trặc”, “rủi ro” xảy ra đối với những người lao động, đảm bảo cho việc phục hồi năng lực làm việc, khả năng sáng tạo của sức lao động. Sự bảo đảm này tác động trực tiếp đến việc nâng cao năng suất lao động cá nhân, đồng thời góp phần vào việc nâng cao năng suất lao động xã hội. BHXH đã gián tiếp tác động đến chính sách tiêu dùng, làm tăng sự tiêu dùng cho xã hội, đồng thời góp phần đảm bảo an ninh quốc gia.
Mặt khác, với vị trí là một quỹ tiền tệ tập trung, BHXH tác động tới hệ thống tài chính thông qua hoạt động đầu tư, bảo tồn và phát triển quỹ. Hoạt động đầu tư của quỹ BHXH tác động không nhỏ tới quá trình phát triển kinh tế - xã hội, góp phần tạo ra những cơ sở sản xuất kinh doanh mới, việc làm mới, góp phần quan trọng trong việc tạo công ăn việc làm cho người lao động, từ đó góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp của đất nước, tăng thu nhập cá nhân cho người lao động nói riêng và tăng tổng sản phẩm quốc dân nói chung. Ngoài ra, vai trò đối với xã hội của BHXH còn được thể hiện qua việc BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội, là công cụ phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. [3, tr.14-16].
1.2. Lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm xã hội
1.2.1. Lịch sử bảo hiểm xã hội thế giới
Để đảm bảo những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống, con người cần phải lao động. Nhưng trong thực tế cuộc sống, không phải người lao động nào cũng có đủ điều kiện về sức khỏe, khả năng lao động và những may mắn khác để có một cuộc sống hạnh phúc. Ngược lại, người nào cũng có thể gặp phải những rủi ro, bất hạnh như ốm đau, tai nạn, già yếu, thiếu việc làm do những ảnh hưởng của tự nhiên, của những điều kiện sống và sinh hoạt cũng như các tác nhân xã hội khác. .. Khi rơi vào các trường hợp đó, các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại còn tăng lên, thậm chí xuất hiện nhiều nhu cầu mới. Bởi vậy, để khắc phục những rủi ro, bất hạnh, giảm bớt khó khăn cho bản thân và gia đình thì ngoài việc tự mình khắc phục, người lao động cần sự bảo trợ của cộng đồng và xã hội.
Sự tương trợ dần dần được mở rộng và phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong quá trình phát triển của xã hội, đặc biệt là sau cuộc cách mạng công nghiệp, hệ thống BHXH đã có những cơ sở để hình thành và phát triển. Quá trình công nghiệp hóa làm cho đội ngũ người làm công ăn lương tăng lên, cuộc sống của họ chủ yếu dựa vào thu nhập do lao động làm thê đem lại. Sự hẫng hụt về tiềng lương trong các trường hợp bị ốm đau, tai nạn, mất việc làm, già yếu… đã trở thành mối đe dọa đối với cuộc sống bình thường của những người không có nguồn thu nhập nào khác ngoài tiền lương. Điều đó đòi hỏi phải có sự tương thân, tương ái giữa những người lao động, đồng thời đòi hỏi giới chủ và Nhà nước phải có trợ giúp bảo đảm cuộc sống cho họ. Năm 1850, lần đầu tiên ở Đức nhiều bang đã thành lập quỹ ốm đau và yêu cầu công nhân phải đóng góp để dự phòng khi bị giảm thu nhập vì bệnh tật. Từ đó, xuất hiện hình thức bắt buộc đóng góp. Lúc đầu chỉ có giới thợ tham gia, dần dần các hình thức bảo hiểm mở rộng ra cho các trường hợp rủi ro
nghề nghiệp, tuổi già, tàn tật. Đến cuối những năm 1880, BHXH đã mở ra hướng mới với cơ chế ba bên: người lao động, giới chủ và Nhà nước. Mô hình này của Đức đã lan dần ra châu Âu, sau đó sang các nước Mỹ Latin, Bắc Mỹ, Canada vào những năm 30 của thế kỷ XX. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, BHXH đã lan rộng sang các nước giành được độc lập ở châu Á, châu Phi và vùng Caribê. BHXH dần dần đã trở thành một trụ cột cơ bản của hệ thống An sinh xã hội, được tất cả các nước thừa nhận là một trong những quyền cơ bản của của con người.
Có thể nói, qua nhiều thời kỳ, cùng với sự tranh chấp giữa nhiều vấn đề của giới chủ và giới thợ, cùng với sự đổi mới quá trình phát triển kinh tế - xã hội, trình độ chuyên môn và nhận thức về BHXH của người lao động ngày càng được nâng cao, cách thức chủ động khắc phục khi có những sự kiện hoặc không may gặp phải những rủi ro của người lao động ngày càng hoàn thiện. Tuy nhiên, chỉ đến khi có sự ra đời của BHXH thì những tranh chấp cũng như những khó khăn mới được giải quyết một cách ổn thỏa và có hiệu quả nhất. Sự xuất hiện của BHXH là một tất yếu khách quan khi mà mọi thành viên trong xã hội đều cảm thấy cần thiết phải tham gia hệ thống BHXH và sự cần thiết được BHXH. Vì vậy, BHXH đã trở thành nhu cầu và quyền lợi của người lao động và được thừa nhận là một nhu cầu tất yếu khách quan, một trong những quyền cơ bản của con người như trong Tuyên ngôn nhân quyền của Đại Hội động Liên hợp quốc đã nêu. [3, tr. 35-38].
1.2.2. Lịch sử bảo hiểm xã hội Việt Nam
BHXH Việt Nam ra đời, phát triển gắn liền với lịch sử ra đời và phát triển của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1945). BHXH được coi là lĩnh vực có quá trình phát triển lâu đời nhất trong hệ thống An sinh xã hội ở Việt Nam. Trong những năm qua, các chế độ BHXH đã đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm xã hội cho người lao động, đặc biệt là công nhân viên chức làm việc trong khu vực nhà nước.
Cơ sở đầu tiên cho sự ra đời của BHXH ở Việt Nam là Hiến pháp năm 1946. Trên cơ sở của Hiến pháp, Chính phủ đã ban hành các sắc lệnh nhằm thực hiện chính sách BHXH như: Sắc lệnh số 20/SL ngày 16/02/1947 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành quy định về chế độ “Hưu bổng thương tật” và “Tiền tuất cho thân nhân tử sĩ”; Sắc lệnh số 29/SL ngày 12/3/1947 về các quan hệ làm công giữa các chủ nhân Việt Nam hay người ngoại quốc đối với công nhân Việt Nam… Trong giai đoạn này, do khó khăn về kinh tế, Chính phủ Việt nma chior áp dụng chính sách BHXH với phạm vi đối tượng hạn hẹp là cán bộ, công chức Nhà nước và quân nhân.
Bước tiến tiếp theo về cơ sở pháp lý của BHXH được thể hiện trong Hiến pháp năm 1959, trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt làm hai miền Nam
– Bắc. Điều 32, Hiến pháp năm 1959 thừa nhận quyền của người lao động được giúp đỡ về vật chất khi già yếu, bệnh tật hoặc mất sức lao động. Tuy nhiên, phải đến năm 1962, quỹ BHXH mới bắt đầu được hình thành trên cơ sở “Điều lệnh tạm thời về BHXH đối với công nhân viên chức nhà nước” được Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn ngày 14/12/1961 kèm theo Nghị định số 218/CP do Hội đồng Chính phủ ban hành ngày 27/12/1961 thay thế các quy định về BHXH trước đó. Mức đóng góp được Chính phủ quy định như sau: trích 1% từ quỹ lương để chi trả chế độ hưu trí, mất sức lao động và trợ cấp tuất cho công nhân viên khi chết; trích 3,7% từ quỹ lương để chi cho chế độ ốm đau, thai sản, lao động và bệnh nghề nghiệp, nghỉ dưỡng và quản lý quỹ BHXH. Riêng đối với quân nhân phục vụ trong lực lượng vũ trang thì không thu BHXH nhưng vẫn thuộc đối tượng hưởng BHXH. Nhà nước bao cấp phần chênh lệch giữa thu và chi. Theo Điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định 218/CP, quỹ BHXH là quỹ độc lập thuộc Ngân sách Nhà nước. Tổng Công đoàn Việt Nam (nay là Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam) được giao nhiệm vụ quản lý quỹ BHXH và thực hiện các chế độ BHXH. Tiền quỹ BHXH gửi Ngân hàng Nhà nước, chịu sự quản lý tiền mặt của Ngân hàng.
Cùng với sự đổi mới nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, ngày 23/6/1993 Chính phủ ban hành Nghị định 43/CP quy định tạm thời chế độ BHXH thay thế cho Nghị định 218/CP. Nội dung của Nghị định đã bao hàm những cải cách lớn về BHXH như: Mở rộng đối tượng và phạm vi áp dụng chế độ BHXH, làm rõ trách nhiệm, nghĩa vụ đóng góp xây dựng quỹ BHXH của người sử dụng lao động và người lao động. Nâng mức thu quỹ BHXH lên 20% quỹ lương, trong đó người lao động đóng 5%; người sử dụng lao động đóng 15%, quỹ hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ. Có thể nói Nghị định 43/CP là bước đệm cho một cuộc cải cách thực sự của hệ thống BHXH ở nước ta. Trong tiến trình cải cách kinh tế - xã hội, hệ thống chính sách, chế độ BHXH trước đây không còn phù hợp nữa, nó đã và đang được đổi mới cơ bản về chất cho phù hợp với bản chất của BHXH trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ngày 223/6/1994 tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoa IX đã thông qua Bộ Luật lao động (có hiệu lực thi hành từ 01/01/1995), xác lập và bảo vệ quyền lợi hợp pháp và nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động trong việc tham gia BHXH (chương XII – Bộ Luật lao động). Đây là sự kiện pháp lý có ý nghĩa to lớn đối với lĩnh vực BHXH và đây là lần đầu tiên ở nước ta pháp luật về BHXH được quy định ở hình thức cao nhất trong một bộ luật. Cụ thể hóa các điều khoản của Bộ luật Lao động về BHXH, Chính phủ ban hành Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995 kèm theo Điều lệ BHXH và Nghị định 19/CP ngày 16/02/1995 về việc thành lập BHXH Việt Nam. Từ đây, quỹ BHXH Việt Nam đã thực sự hình thành và dần đi vào quỹ đạo chung mang tính quy luật. Quỹ có cơ quan quản lý, dần tách ra khỏi ngân sách Nhà nước, được quản lý thống nhất, hạch toán độc lập, có sự hỗ trợ của Nhà nước. Điều này sẽ phát huy đầy BHXH đủ quyền và lợi ích của người lao động, không ỷ lại vào ngân sách nhà nước, xóa chế độ bao cấp, mở đường cho sự nghiệp BHXH phát triển.
Ngày 29/06/2006, “Luật BHXH của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 71/2006/QH11” đã chính thức được ban hành và có hiệu lực thi hành từ 01/01/2007. Với 11 chương và 141 điều, Luật BHXH đã kế thừa và hoàn thiện những vấn đề pháp lý liên quan đến hoạt động BHXH, theo đó phạm vi BHXH cũng được mở rộng, hoàn thiện theo hướng sát với các tiêu chuẩn về BHXH mà Tổ chức Lao động thế giới đã đề ra. [3, 19].
1.3. Hệ thống chế độ bảo hiểm xã hội
1.3.1. Các chế độ BHXH theo khuyến cáo của Tổ chức Lao động quốc tế
Tại kỳ họp thứ 35, Hội nghị toàn thể của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) được Hội đồng quản trị của Văn phòng Lao động quốc tế triệu tập tại Giơnevơ ngày 04/6/1952, sau khi quyết định chấp thuận một số đề nghị về các quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội, ngày 28/6/1952, ILO đã thông qua Công ước số 102 – Công ước về an toàn xã hội (quy phạm tối thiểu), đánh dấu một bước ngoặt quan trọng về BHXH trên thế giới. Nội dung của Công ước số 102 về BHXH bao gồm một hệ thống 9 chế độ như sau: 1- Chế độ chăm sóc y tế; 2 - Chế độ trợ cấp ốm đau; 3- Chế độ trợ cấp thất nghiệp; 4- Chế độ trợ cấp tuổi già; 5- Chế độ trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp; 6- Chế độ trợ cấp gia đình; 7- Chế độ trợ cấp thai sản; 8- Chế độ trợ cấp tàn tật; 9- Chế độ trợ cấp tử tuất. [18]
Công ước số 157 được thông qua ngày 21/6/1982, gọi là Công ước về duy trì các quyền về an toàn xã hội, tiếp tục khẳng định 9 nhánh an toàn xã hội như trên. Sau đó, vẫn còn một số các công ước và khuyến nghị khác liên quan đến các chế độ BHXH nhưng nội dung chủ yếu vẫn theo tinh thần của Công ước 102.
Trong các công ước quốc tế, mỗi chế độ BHXH đều được cụ thể hóa bằng những điều, những mục vừa cụ thể, vừa mang tính định hướng để các nước vận dụng. Nếu nhìn nhận một cách khái quát, mỗi chế độ đều được kết cấu bởi các nội dung sau: