Bảo hiểm xã hội của Nhật Bản và một số gợi ý chính sách cho Việt Nam - 2


hội của Nhật Bản để làm cơ sở thực tiễn cho xây dựng và phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội ở Việt Nam vẫn còn nhiều vấn đề chưa được đề cập. Do vậy, vẫn còn câu hỏi đặt ra đối với việc nghiên cứu vấn đề này, đó là:

Thứ nhất: Nhật Bản đã xây dựng và phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội như thế nào? Việc thực hiện các chế độ BHXH cơ bản của Nhật Bản có những ưu, nhược điểm gì?

Thứ hai: Việt Nam có thể học tập kinh nghiệm gì từ Nhật Bản trong việc xây dựng hệ thống BHXH nói chung, và hoạch định chính sách đối với từng chế độ BHXH nói riêng?

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1 Mục đích nghiên cứu

Phân tích, đánh giá hệ thống bảo hiểm xã hội Nhật Bản, chỉ rõ những ưu điểm và hạn chế trong việc thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội của Nhật Bản. Trên cơ sở đó rút ra những kinh nghiệm có thể học tập trong xây dựng hệ thống chính sách bảo hiểm xã hội ở Việt Nam.

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

- Hệ thống hóa cơ sở lý luận của vấn đề bảo hiểm xã hội.

- Phân tích, đánh giá hệ thống bảo hiểm xã hội của Nhật Bản.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 102 trang tài liệu này.

- Phân tích sự tương đồng và khác biệt về vấn đề bảo hiểm xã hội giữa Việt Nam và Nhật Bản, chỉ ra điều kiện và khả năng vận dụng những kinh nghiệm từ Nhật Bản về chính sách bảo hiểm xã hội.

- Đưa ra một số gợi ý về chính sách trong xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội Việt Nam từ kinh nghiệm Nhật Bản.

Bảo hiểm xã hội của Nhật Bản và một số gợi ý chính sách cho Việt Nam - 2

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội của Nhật Bản.

- Phạm vi nghiên cứu: tình hình các chế độ cơ bản của bảo hiểm xã hội Nhật Bản giai đoạn 2000 – 2011. Hệ thống bảo hiểm xã hội Việt Nam và khả năng vận dụng kinh nghiệm Nhật Bản trong thực hiện các chính sách về bảo hiểm xã hội.


5. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng cách tiếp cận nghiên cứu kinh tế chính trị trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Duy vật biện chứng và chủ nghĩa Duy vật lịch sử.

Các phương pháp cụ thể là:

- Phương pháp kết hợp logic và lịch sử: Logic kết hợp với lịch sử nhằm khám phá ra bản chất và quy luật nội tại chi phối sự phát triển của lịch sử, đồng thời còn phản ánh được một cách khái quát lịch sử sự vật ở những nét chủ yếu. Trong phạm vi luận văn, phương pháp logic kết hợp với lịch sử thể hiện rõ ở việc phân tích bảo hiểm xã hội Nhật Bản trong giai đoạn 2000 – 2011 để chỉ ra nét tương đồng, khác biệt giữa Việt Nam và Nhật Bản về thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội làm cơ sở cho sự vận dụng vào Việt Nam.

- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Quá trình nhận thức là quá trình sử dụng kết hợp, xen kẽ giữa phân tích và tổng hợp. Phân tích cho ta nhận thức cụ thể về các mặt riêng lẻ của vấn đề nghiên cứu. Tổng hợp cho ta nhận thức về sự hoàn chỉnh, thống nhất của vấn đề trên cơ sở kết hợp một cách biện chứng các kết quả nghiên cứu của phân tích. Đây cũng là một trong những phương pháp nghiên cứu cơ bản của luận văn. Trên cơ sở phân tích các đặc điểm của hệ thống bảo hiểm xã hội Nhật Bản, luận văn tổng hợp các kết quả nghiên cứu đó để đưa ra một số gợi ý về chính sách cho bảo hiểm xã hội Việt Nam.

- Phương pháp phân tích số liệu thống kê: luận văn sử dụng các phương pháp của khoa học thống kê để phân tích các số liệu có được về việc thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội của Nhật Bản.

6. Những đóng góp của luận văn

- Phân tích, đánh giá tình hình thực hiện các chế độ cơ bản của bảo hiểm xã hội Nhật Bản giai đoạn 2000 – 2011.


- Chỉ ra những điểm tương đồng, khác biệt giữa Bảo hiểm xã hội Việt Nam và Bảo hiểm xã hội Nhật Bản.

- Đề xuất một số gợi ý về chính sách cho bảo hiểm xã hội Việt Nam từ những kết quả nghiên cứu bảo hiểm xã hội Nhật Bản.

7. Bố cục luận văn

Chương 1. Những vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội

Chương 2. Hệ thống bảo hiểm xã hội Nhật Bản

Chương 3. Một số gợi ý về chính sách cho bảo hiểm xã hội Việt Nam từ kinh nghiệm Nhật Bản


CHƯƠNG I

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI

1.1. Bản chất và vai trò của bảo hiểm xã hội

1.1.1. Khái niệm và phân loại bảo hiểm xã hội

1.1.1.1. Khái niệm Bảo hiểm xã hội

BHXH là một bộ phận cấu thành của hệ thống an sinh xã hội. Hệ thống an sinh xã hội trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang trong quá trình phát triển và hoàn thiện. Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), an sinh xã hội (Social Security) là sự bảo vệ của xã hội đối với mọi thành viên của mình thông qua một loạt biện pháp công cộng, nhằm chống lại những khó khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc bị giảm thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và chết, đồng thời đảm bảo chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con. Ngày nay, khái niệm an sinh xã hội được hiểu theo nghĩa rộng hơn, đó là sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên không may bị lâm vào cảnh yếu thế trong xã hội, thông qua các biện pháp phân phối lại tiền bạc, của cải và dịch vụ xã hội. Theo cách hiểu này, hệ thống an sinh xã hội bao gồm 2 bộ phận cơ bản là bảo hiểm xã hội và cứu trợ xã hội. Trong đó, bảo hiểm xã hội (Social Insurance) là bộ phận chủ yếu và quan trọ ng nhất trong hệ thống an sinh xã hội.

Có nhiều khái niệm khác nhau về BHXH được nêu ra trong các tài liệu tùy theo phương diện tiếp cận của tác giả. Trong số đó, khái niệm bảo hiểm xã hội nêu ra trong Từ điển Bách khoa Việt Nam và trong Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam đ ược coi là phù hợp nhất với đối tượng nghiên cứu về bảo hiểm xã hội Việt Nam.

Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ mất hoặc giảm thu


nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia bảo hiểm xã hội, có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật, nhằm đảm bảo an toàn đời sống của người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần đảm bảo an toàn xã hội” [17].

Theo Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam: “BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH” [16].

Như vậy, có thể khái quát về BHXH như sau: BHXH là phương pháp san sẻ rủi ro được thực hiện thông qua việc tạo lập quỹ tài chính BHXH, nhằm đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết.

1.1.1.2. Phân loại Bảo hiểm xã hội

BHXH là một vấn đề kinh tế xã hội tổng hợp có thể tiếp cận, nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Từ đó có nhiều cách, nhiều tiêu chí phân loại, tạo ra những kết quả phân loại khác nhau. Trong lý luận cũng như trong thực tế, BHXH thường được phân loại theo các tiêu thức cơ bản sau:

Thứ nhất, phân loại theo loại hình BHXH của người tham gia BHXH. Theo cách phân loại này, BHXH được chia thành hai loại: BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện. Cách phân loại này nhằm xác định đối tượng tham gia và điều kiện tổ chức, mở rộng các loại hình BHXH một cách hợp lý. Trong đó, BHXH bắt buộc là loại hình bảo hiểm mà người lao động, người sử dụng lao động bắt buộc phải tham gia theo quy định của pháp luật. Loại BHXH này được hình thành khi Nhà nước đã đứng ra lo liệu với tư cách là người tổ chức, quản lý BHXH. Việc tổ chức BHXH bắt buộc chủ yếu để thực hiện mục đích


ràng buộc trách nhiệm của người sử dụng lao động với người lao động nhằm ổn định nguồn thu, chi để phát triển BHXH bền vững. Thông qua đó có thể đảm bảo đời sống cho người lao động, đảm bảo an sinh xã hội nói chung. Thông thường phạm vi bảo hiểm bắt buộc rộng hay hẹp phục thuộc vào trình độ, khả năng quản lý rủi ro, quản lý đối tượng tham gia của nhà nước. Khi mới ban hành các chính sách, chế độ BHXH bắt buộc, các nước thường bắt đầu từ phạm vi hẹp, đó là những lao động làm việc có hưởng lương tương đối ổn định. Ngay cả các đối tượng này, ban đầu cũng có những giới hạn nhất định về ngành nghề, thành phần kinh tế hay khu vực tham gia. Sau đó, phạm vi tham gia ngày càng được mở rộng hơn, trên cơ sở trình độ, phương tiện và kinh nghiệm quản lý đạt được. Về mức phí BHXH bắt buộc, người tham gia có trách nhiệm hàng tháng phải đóng một khoản tiền nhất định, do pháp luật quy định, tương ứng với một tỉ lệ tiền lương của người lao động cho quỹ BHXH.

BHXH tự nguyện là loại hình bảo hiểm mà người lao động có quyền tự quyết định tham gia hay không tham gia, được lựa chọn mức đóng, phương thức đóng, hưởng phù hợp theo các quy định của pháp luật. Xuất phát điểm của BHXH là sự tự nguyện của cộng đồng những người lao động cùng có nguy cơ gặp một số rủi ro và cùng có nhu cầu chia sẻ các rủi ro đó. Việc nhà nước phải đứng ra tổ chức quản lý BHXH theo hình thức bắt buộc cũng chứng tỏ rằng nếu BHXH thuần túy chỉ là sự tự nguyện của người lao động thì hoặc là không bền vững, hoặc là không hiệu quả, rủi ro chỉ được quản lý, chia sẻ trong những cộng đồng nhỏ hẹp, ít chuyên nghiệp… Vì vậy, để có hệ thống bảo hiểm tự nguyện hiệu quả cũng cần có sự tổ chức, quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên các nước không lựa chọn điều chỉnh loại hình này ngay từ khi bắt đầu tổ chức BHXH. Bởi vì, những lao động không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc thường không có sự chia sẻ từ phía người sử dụng


lao động. Từ đó, nhu cầu tham gia bảo hiểm của các đối tượng này cũng không ổn định. Nếu không có các biện pháp quản lý hữu hiệu thì quỹ bảo hiểm tự nguyện khó có điều kiện duy trì bền vững. Đối với những nước mà khu vực phi chính thức và các lao động tự tạo việc làm chiếm tỉ trọng lớn thì việc quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm tự nguyện cực kỳ khó khăn. Cơ quan bảo hiểm thường ít có thông tin về các đối tượng này để kiểm soát thu sao cho đủ và xác định căn cứ chi trả sao cho quỹ không bị lạm dụng.

Thứ hai, phân loại theo thời gian cân đối và hạch toán quỹ BHXH. Theo cách này, BHXH được phân loại thành BHXH ngắn hạn và BHXH dài hạn. Cách phân loại này chủ yếu giúp các tổ chức BHXH lựa chọn phương thức quản lý quỹ BHXH cho cả hệ thống hay cho từng loại chế độ, thống kê xác suất rủi ro trong phạm vi bao phủ của quỹ, làm cơ sở để xác định công thức đóng hưởng và thời hạn chi trả bảo hiểm. Trong đó, BHXH ngắn hạn thường dùng để chỉ nhóm các chế độ BHXH có thời hạn ngắn, trong khoảng một năm, chủ yếu trên cơ sở tương trợ cộng đồng giữa những người tham gia bảo hiểm. Đối tượng hưởng BHXH ngắn hạn thường là những người lao động trong độ tuổi lao động. Việc hưởng các chế độ BHXH ngắn hạn chủ yếu là trợ cấp một lần hoặc trong một thời gian ngắn.

BHXH dài hạn thường được dùng để chỉ nhóm các chế độ BHXH dài hạn, từ khi người lao động bắt đầu tham gia cho đến khi quan hệ BHXH kết thúc, theo hình thức lập quỹ tiết kiệm bắt buộc, có kết hợp với tương trợ cộng đồng. Như vậy, yếu tố thời gian đóng BHXH được coi là một trong các điều kiện cơ bản để xác định để xác định quyền hưởng bảo hiểm và mức hưởng của loại chế độ bảo hiểm xã hội. Đối tượng hưởng BHXH dài hạn chủ yếu là người lao động đã kết thúc quan hệ lao động, nghỉ việc hưởng BHXH sau một thời gian dài đóng góp hoặc để lại phần đóng góp cho thân nhân như một khoản thừa kế, hoặc cần phải tương trợ nuôi thân nhân… Do đó, bên cạnh


một số ít trường hợp chi trả một lần, BHXH dài hạn thường chi trả trợ cấp trong khoảng thời gian dài, khó xác định rõ thời gian hưởng ở từng đối tượng. Quỹ được thu và quản lý trong thời gian dài nên rất phức tạp trong việc tính toán, cân đối đóng, hưởng hợp lý và bảo tồn giá trị trong điều kiện lạm phát và nhu cầu sống ngày càng tăng do kinh tế phát triển.

Ngoài hai cách phân loại cơ bản trên, còn có thể phân loại BHXH theo những tiêu thức khác, như: căn cứ vào các trường hợp được bảo hiểm có thể phân BHXH thành các chế độ cụ thể như chế độ BHXH khi ốm đau, thai sản, tai nạn nghề nghiệp, thất nghiệp, hưu trí, tử tuất…; căn cứ vào tần suất chi trả bảo hiểm có thể phân BHXH thành các loại bảo hiểm một lần, bảo hiểm một thời kỳ và bảo hiểm thường xuyên; căn cứ vào đối tượng hưởng BHXH có BHXH cho người lao động và BHXH cho thân nhân người lao động… [3, tr.17-19].

1.1.2. Đặc điểm bảo hiểm xã hội

Đặc điểm của BHXH thể hiện qua một số khía cạnh sau:

BHXH là hoạt động chia sẻ rủi ro của cộng đồng theo nguyên tắc “số đông bù số ít” và nguyên tắc “tiết kiệm chi tiêu”.

Theo nguyên tắc “số đông bù số ít”, rủi ro của một hoặc một số người sẽ được chia sẻ cho nhiều người tham gia BHXH cùng gánh chịu. Theo cách đó, những rủi ro trong cuộc sống như: đau ốm, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tàn tật, chết sớm… là gánh nặng của bản thân và gia đình của số ít những người không may sẽ trở nên nhẹ bớt khi được san sẻ cho nhiều người. Nói cách khác, đó chính là sự thể hiện tính tương hỗ của cộng đồng – những thành viên trong xã hội thông qua việc bù trừ rủi ro qua quỹ BHXH.

Theo nguyên tắc “tiết kiệm chi tiêu”, người tham gia BHXH phải “để dành” một khoản thu nhập bằng việc đều đặn góp khoản để dành đó vào quỹ BHXH lúc có thu nhập để được hưởng trợ cấp lúc tạm thời hoặc vĩnh viễn mất khả năng lao động.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 27/10/2023