người sử dụng lao động theo thỏa thuận, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành, giám sát của người sử dụng lao động” [34, tr.1]. Trong bộ luật này cũng quy định độ tuổi tối thiểu của NLĐ là đủ 15 tuổi, trừ những trường hợp lao động chưa thành niên.
Như vậy chúng ta thấy, tùy từng thời điểm cụ thể mà khái niệm NLĐ lại có sự điều chỉnh, thay đổi khác nhau cho phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong nghiên cứu này, đối tượng tham gia BHXHTN là: Những người từ đủ 15 tuổi trở lên và không thuộc đối tượng tham gia BHXHBB theo quy định của pháp luật về BHXH, thì được gọi chung là NLĐ.
1.1.7. Quy định cơ bản về chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện
1.1.7.1. Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện
Đối tượng tham gia BHXHTN theo quy định tại Điều 8, quyết định số 595/QĐ-BHXH ngày 14/4/2017 của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam quy định: “Người tham gia BHXHTN là công dân Việt Nam từ đủ 15 tuổi trở lên và không thuộc đối tượng tham gia BHXHBB theo quy định của pháp luật về BHXH” [2, tr.10]. Như vậy, đối tượng tham gia BHXH tự nguyện khá rõ ràng, bao gồm toàn bộ NLĐ từ 15 tuổi trở lên và không thuộc đối tượng tham gia BHXHBB thì được tham gia BHXHTN.
Vậy, những đối tượng đó gồm:
+ NLĐ làm việc theo HĐLĐ có thời hạn dưới 03 tháng trước ngày 01/01/2018; NLĐ làm việc theo HĐLĐ có thời hạn dưới 01 tháng từ ngày 01/01/2018 trở đi;
+ Người hoạt động không chuyên trách ở thôn, ấp, bản, sóc, làng, tổ dân phố, khu, khu phố;
+ NLĐ giúp việc gia đình;
+ Người tham gia các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ không hưởng tiền lương;
+ Xã viên không hưởng tiền lương, tiền công làm việc trong hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã;
+ Người nông dân, NLĐ tự tạo việc làm bao gồm những người tự tổ chức hoạt động lao động để có thu nhập cho bản thân và gia đình;
+ NLĐ đã đủ điều kiện về tuổi đời nhưng chưa đủ điều kiện về thời gian đóng để hưởng lương hưu theo quy định của pháp luật về BHXH;
+ Người tham gia khác.
- Cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan đến BHXH tự nguyện
Hiện nay, theo quy định tại Điểm h, Khoản 1 Điều 27 của Luật thi hành án dân sự số 41/2019/QH14 có một điểm mới đó là “phạm nhân được tham gia BHXHTN, hưởng chế độ, chính sách về BHXH theo quy định pháp luật”. Quy định này có hiệu lực từ ngày 01/01/2020.
Tựu chung lại ta thấy, đối tượng tham gia BHXHTN khá rộng. Nó bao gồm toàn bộ những người từ 15 tuổi trở lên mà chưa tham gia BHXHBB, kể cả phạm nhân cũng được tham gia BHXHTN.
1.1.7.2. Mức đóng, phương thức đóng và hỗ trợ của Nhà nước
Mức đóng: Theo quy định, hiện nay mức đóng BHXHTN của NLĐ bằng 22% mức thu nhập tháng do người tham gia BHXHTN lựa chọn. Mức thu nhập thấp nhất NLĐ tham gia phải đóng bằng mức chuẩn hộ nghèo của khu vực nông thôn và mức đóng cao nhất bằng 20 lần mức lương cơ sở tại thời điểm đóng [33, tr.36]. Hiện nay, mức chuẩn hộ nghèo của khu vực nông thôn là 700.000 đồng/người/tháng được quy định tại Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ngày 19/11/2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 – 2020.
Phương thức đóng: Theo quy định tại Mục 2, Khoản 1, Điều 9 Quyết định số 595/QĐ-BHXH ngày 14/04/2017 [2, tr.11] và khoản 14, Điều 1 Quyết định số 505/QĐ-BHXH ngày 27/03/2020 [3, tr.3] của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam quy định NLĐ tham gia BHXHTN lựa chọn các phương thức đóng như: NLĐ có thể lựa chọn đóng BHXHTN theo hàng tháng; đóng theo 03 tháng/1 lần, 06 tháng/1 lần, 12 tháng/1 lần đóng hoặc NLĐ đóng một lần cho nhiều năm về sau nhưng không quá 05 năm một lần; đối với những NLĐ đã đủ
điều kiện về tuổi để hương lương hưu nhưng thời gian đóng BHXH còn thiếu không quá 10 năm (120 tháng) thì được đóng một lần cho đủ 20 năm để hưởng lương hưu.
Như vậy, phương thức đóng BHXHTN hiện nay khá linh hoạt, mềm dẻo, tạo điều kiện thuận lợi tốt nhất để NLĐ tham gia và hưởng lương hưu.
Hỗ trợ mức đóng của Nhà nước: Nhà nước có chính sách hỗ trợ đóng cho NLĐ khi tham gia BHXHTN theo tỷ lệ % trên mức đóng BHXH hàng tháng theo mức chuẩn nghèo ở khu vực nông thôn, cụ thể được mô tả trong bảng sau [8, tr.10].
Bảng 1.1. Mô tả hỗ trợ mức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện của Nhà nước
Đối tượng | Tỷ lệ hỗ trợ (%) | Số tiền được hỗ trợ (đồng/tháng) | Mức đóng thấp nhất (đồng/tháng) | |
1 | Hộ nghèo | 30 | 46.200 | 107.800 |
2 | Hộ cận nghèo | 25 | 38.500 | 115.500 |
3 | Đối tượng khác | 10 | 15.400 | 138.600 |
Có thể bạn quan tâm!
- Tham gia Bảo hiểm xã hội tự nguyện hiện nay của người lao động ở huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ - 2
- Đối Tượng, Khách Thể Và Phạm Vi Nghiên Cứu
- Tham Gia Bảo Hiểm Xã Hội Tự Nguyện
- Nguyên Tắc Của Bảo Hiểm Xã Hội, Bảo Hiểm Xã Hội Tự Nguyện
- Mức Độ Tham Gia Bảo Hiểm Xã Hội Tự Nguyện Trên Địa Bàn Huyện Đoan Hùng
- Tỷ Trọng Người Tham Gia Bảo Hiểm Xã Hội Tự Nguyện Giai Đoạn (2016 – 2019)
Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.
(Nguồn: Chính phủ, 2015)
Khi đóng BHXHTN, người tham gia được giảm trừ ngay số tiền Nhà nước hỗ trợ khi đóng BHXHTN. Thời gian hỗ trợ tiền đóng của Nhà nước tùy thuộc vào thời gian tham gia BHXHTN thực tế của mỗi người tham gia nhưng không quá 10 năm (120 tháng). Ngoài ra, tùy thuộc vào mỗi địa phương cũng có mức hỗ trợ thêm cho người tham gia BHXHTN. Nhưng trên thực tế rất ít địa phương có chính sách hỗ trợ đóng BHXHTN cho NLĐ mà chủ yếu là sự hỗ trợ của Nhà nước.
1.1.7.3. Quyền lợi của người lao động khi tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện
Quyền lợi của NLĐ khi tham gia BHXHTN là được hưởng chế độ hưu trí, trợ cấp một lần khi nghỉ hưu, chế độ tử tuất, trợ cấp tuất một lần. Tuy
nhiên mức hưởng lương hưu và trợ cấp khác nhau tùy thuộc vào mức đóng và thời gian tham gia BHXHTN của mỗi NLĐ.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 4 Luật BHXH thì BHXHTN có 2 chế độ là hưu trí và tử tuất [33, tr.3].
Chế độ hưu trí:
Điều kiện hưởng lương hưu: Người tham gia BHXHTN được hưởng lương hưu hàng tháng khi có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên và đủ tuổi theo quy định.
Hiện nay, tuổi nghỉ hưu theo quy định như sau: Năm 2020: nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi. Năm 2021: nam đủ 60 tuổi 03 tháng, nữ đủ 55 tuổi 04 tháng. Sau đó, mỗi năm tăng thêm 03 tháng với lao động nam và 04 tháng với lao động nữ. Tuổi nghỉ hưu của nam sẽ đạt 62 tuổi vào năm 2028, với lao động nữ sẽ đạt 60 tuổi vào năm 2035. Bên cạnh đó, nếu đã đủ điều kiện về tuổi nhưng thời gian NLĐ đóng BHXH còn thiếu không quá 10 năm (120 tháng) được lựa chọn đóng một lần cho thời gian còn thiếu cho đủ 20 năm để hưởng lương hưu.
Mức hưởng lương hưu hàng tháng: Mức hưởng lương hưu hàng tháng của NLĐ được tính bằng 45% mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH và tương ứng với số năm đóng BHXH như sau: NLĐ nam nghỉ hưu vào năm 2020 là 18 năm, năm 2021 là 19 năm và từ năm 2022 trở đi sẽ là 20 năm. Khác biệt với NLĐ nam, NLĐ nữ nghỉ hưu từ năm 2020 trở đi là 15 năm. Sau đó cứ thêm mỗi năm đóng BHXH, NLĐ cả nam và nữ được cộng thêm 2%, mức tối đa bằng 75%.
Trợ cấp một lần khi nghỉ hưu: Người tham gia có thời gian đóng BHXH cao hơn số năm tương ứng với tỷ lệ hưởng lương hưu 75%, khi nghỉ hưu, ngoài lương còn được hưởng trợ cấp một lần. Mức trợ cấp một lần được tính theo số năm đóng BHXH cao hơn số năm tương ứng với tỷ lệ hưởng lương hưu 75%, cứ mỗi năm đóng BHXH thì được tính bằng 0,5 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH.
Ngoài ra, nếu người tham gia BHXHTN không đáp ứng đủ điều kiện để hưởng lương hưu thì NLĐ có thể làm thủ tục để hưởng BHXH một lần. Mức hưởng BHXH một lần được tính theo số năm đã đóng BHXH theo quy định.
Chế độ tử tuất:
- Trợ cấp mai táng: Khi người tham gia BHXHTN (đủ 60 tháng trở lên) hoặc đang hưởng lương hưu chết thì thân nhân được hưởng trợ cấp mai táng phí bằng 10 tháng lương tối thiểu tại thời điểm người tham gia BHXH chết.
- Trợ cấp tuất: Khác với người tham gia BHXHBB, chế độ tuất của người tham gia BHXHTN chỉ có tuất một lần.
+ Mức trợ cấp tuất một lần đối với thân nhân của NLĐ đang đóng BHXH hoặc đang bảo lưu thời gian đóng BHXH được tính theo số năm đã đóng BHXH, cứ mỗi năm tính bằng 1,5 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH cho những năm đóng BHXH trước năm 2014; bằng 02 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH cho các năm đóng từ năm 2014 trở đi.
+ Trường hợp NLĐ có thời gian đóng BHXH chưa đủ một năm thì mức trợ cấp tuất một lần bằng số tiền đã đóng nhưng mức tối đa bằng 02 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH; trường hợp NLĐ có cả thời gian đóng BHXHBB và BHXHTN thì mức hưởng trợ cấp tuất một lần tối thiểu bằng 03 tháng mức bình quân tiền lương và thu nhập tháng đóng BHXH.
+ Mức trợ cấp tuất một lần đối với thân nhân của người đang hưởng lương hưu chết được tính theo thời gian đã hưởng lương hưu, nếu chết trong 02 tháng đầu hưởng lương hưu thì tính bằng 48 tháng lương hưu đang hưởng; trường hợp chết vào những tháng sau đó, cứ hưởng thêm 01 tháng lương hưu thì mức trợ cấp giảm đi 0,5 tháng lương hưu.
Ngoài hai quyền lợi nêu trên, người tham gia BHXH tự nguyện còn có những lợi ích khác như: NLĐ sẽ được cấp thẻ BHYT miễn phí để khám, chữa
bệnh với mức hưởng lên đến 95% trong suốt quá trình hưởng lương hưu cho đến khi NLĐ chết. Tấm thẻ BHYT là tài sản to lớn để chăm sóc sức khỏe cho NLĐ. Ngoài được cấp thẻ BHYT miễn phí ra thì lương hưu của NLĐ sẽ được điều chỉnh trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá tiêu dùng và tăng trưởng kinh tế phù hợp với ngân sách Nhà nước và quỹ BHXH, ngoài ra còn nhiều các quyền, lợi ích có tính ưu việt khác tác giả đã làm rõ trong phần khái niệm BHXHTN.
1.1.8. Vai trò của bảo hiểm xã hội tự nguyện
Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã khẳng định chính sách ASXH, chính sách BHXH trong hầu hết các quy định về quyền cơ bản chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa của con người và đều hướng đến đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của Nhân dân. Tại Điều 34, Hiến pháp 2013 đã khẳng định “Công dân có quyền được đảm bảo ASXH”[32, tr.9] và tại Điều 59 quy định “Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống ASXH…” [32, tr.13]. Với tinh thần đó, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn nỗ lực thực hiện chính sách BHXHTN bằng nhiều các hình thức như việc ban hành các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, hệ thống pháp luật của Nhà nước… để tổ chức thực hiện với mục tiêu cao cả đó là hướng tới “vì quyền lợi của NLĐ và Nhân dân” do đó BHXHTN có vai trò to lớn, rất cần thiết, rất quan trọng trong thực hiện đảm bảo ASXH và được ví như là “cứu cánh” “của để dành” cho NLĐ không thuộc đối tượng tham gia BHXHBB khi về già. Với những lý do đó, về cơ bản BHXHTN có ba vai trò cơ bản như sau:
Một là: BHXHTN góp phần ổn định cuộc sống cho NLĐ khi hết tuổi lao động. Như chúng ta đã biết, theo quy định hiện hành người tham gia BHXHTN khi hết tuổi lao động và đủ số năm đóng BHXH sẽ được hưởng lương hưu hàng tháng khi về già, được Nhà nước cấp thẻ BHYT miễn phí trong suốt thời gian hưởng lương hưu, thân nhân được hưởng trợ cấp mai táng
và chế độ tuất khi người tham gia qua đời và nhiều quyền lợi khác... giúp góp phần ổn định cuộc sống cho NLĐ. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong giảm thiểu rủi ro, biến cố trong cuộc sống khi về già. Đồng thời, giúp giảm bớt gánh nặng cho Nhà nước khi phải thực hiện trợ cấp bảo trợ xã hội cho người cao tuổi như hiện nay, đặc biệt là quá trình già hóa dân số đang diễn biến nhanh chóng với tốc độ chưa từng thấy như ở Việt Nam hiện nay. Nếu như, không có chính sách BHXHTN, thì chắc chắn rằng Nhà nước sẽ phải thêm gánh nặng trợ cấp cho nhóm đối tượng này khi họ về già.
Hai là: BHXHTN góp phần đảm bảo công bằng và bình đẳng trong xã hội. Giai đoạn trước khi có chính sách BHXHTN, Đảng và Nhà nước ta chỉ thực hiện BHXHBB, điều đó có nghĩa là chỉ những NLĐ là cán bộ, công chức, viên chức, NLĐ làm việc trong các công ty, doanh nghiệp theo HĐLĐ (gọi chung là NLĐ có QHLĐ) được tham gia BHXHBB. Những NLĐ là (nông dân, lao động khu vực PCT) thì chưa được tham gia vào BHXH. Nhận thấy, tất cả mọi NLĐ đều tham gia lao động để tạo ra của cải, thu nhập góp phần ổn định cuộc sống cho bản thân và gia đình NLĐ. Nhưng do đòi thực tế khách quan mà những NLĐ có QHLĐ theo quy định của pháp luật được tham gia BHXHBB trước những NLĐ không có QHLĐ. Khi chính sách BHXHTN ra đời và áp dụng từ 01/01/2008 đã góp phần giải quyết được yêu cầu của khách quan đặt ra đó là góp phần tạo sự công bằng, bình đẳng giữa những NLĐ với nhau.
Ba là: BHXHTN góp phần đảm bảo ASXH, tăng trưởng và phát triển đất nước. Ở Việt Nam hiện nay, có thể thấy hệ thống ASXH gồm 3 hệ thống cấu thành đó là: Ưu đãi xã hội, bảo trợ xã hội và BHXH. BHXH là trụ cột cơ bản, cần thiết cho sự đảm bảo của hệ thống ASXH. Trong đó, BHXHTN là một hợp phần của BHXH, góp phần thực hiện ASXH cho NLĐ. Chính sách BHXHTN ra đời là một bước ngoặt lịch sử lớn đem lại niềm vui cho hàng vạn, hàng triệu NLĐ là nông dân, lao động trong khu vực PCT của cả nước
được tiếp cận với loại hình bảo hiểm này. Trong những năm qua Đảng và Nhà nước đã luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và thực hiện chính sách ASXH, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội và coi đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển bền vững đất nước. Khi mọi NLĐ trong xã hội đều tham gia BHXH thì khi hết tuổi lao động Nhà nước sẽ giảm bớt gánh nặng khi phải thực hiện các biện pháp trợ cấp xã hội cho NLĐ khi họ về già, tàn tật... chính vì vậy mà BHXHTN sẽ góp phần tăng trưởng và phát triển đất nước bền vững.
Ngoài những vai trò tác giả nêu trên, giới nghiên cứu cũng đã đưa ra khá nhiều các vai trò cơ bản khác nhau của BHXHTN như: Theo tác giả Phạm Thị Lan Phương (2015) đưa ra vai trò của BHXH và BHXHTN gồm những vai trò cơ bản sau [29, tr.9-10]: Một là: Vai trò của BHXH, BHXHTN đối với cá nhân NLĐ và gia đình gồm: Ổn định thu nhập cho NLĐ, gia đình NLĐ và tạo được tâm lý yên tâm, tin tưởng. Hai là: Vai trò của BHXH, BHXHTN đối với xã hội gồm: Tăng cường mối quan hệ giữa các bên; tạo điều kiện cho những người bất hạnh; thể hiện truyền thống đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần tương thân, tương ái; thực hiện bình đẳng xã hội. Bên cạnh đó, tác giả Hoàng Thị Thanh Huyền (2018) cho rằng, BHXHTN gồm những vai trò như sau [14]. Một là: BHXHTN có vai trò góp phần phòng tránh và hạn chế những tổn thất, đảm bảo an toàn cho sản xuất và đời sống xã hội của con người. Hai là: BHXHTN góp phần thực hiện công bằng xã hội. Ba là: BHXHTN góp phần cân bằng quỹ BHXH trong tương lai... Còn tác giả Hà Văn Sỹ (2016) cho rằng BHXHTN có 3 vai trò cơ bản như sau: [36, tr.29- 30]. Một là: BHXHTN góp phần ổn định cuộc sống cho NLĐ và gia đình mọi NLĐ trong toàn xã hội. Hai là: BHXHTN đảm bảo sự công bằng và bình đẳng giữa những NLĐ. Ba là: BHXHTN còn có vai trò trực tiếp góp phần đảm bảo ASXH cho NLĐ.