không hợp tác trong việc ký Hợp đồng uỷ quyền bán đấu giá tại đơn vị bán đấu giá có thẩm quyền để xử lý tài sản bảo đảm. Và trường hợp này thường phải thông qua con đường tố tụng mất nhiều thời gian và làm ảnh hưởng đến nguồn vốn kinh doanh của Ngân hàng. Đối với một số vụ án, thời gian theo kiện (cả sơ thẩm và phúc thẩm) có thể kéo dài hơn 01 năm, thời gian yêu cầu thi hành
án cũng kéo dài từ 01 đến 03 năm. Ngoài ra, khách hàng còn thường lợi dụng quy định của pháp luật tố tụng để kháng cáo hoặc đề nghị kháng nghị qua nhiều cấp, nhiều giai đoạn tố tụng hoặc đã có bản án có hiệu lực thì cố tình chây ì, không chịu thi hành án. Trong khi đó thời hạn tố tụng kéo dài sẽ ảnh hưởng đến giá trị tài sản đảm bảo (do khấu hàng, khách hàng tẩu tán tài sản để tránh bị kê biên, phát mại để thi hành án hoặc vì những nguyên nhân khách quan khác). Mặt khác, TCTD thực hiện cấp tín dụng trên phạm vi rộng nhiều
đối tượng khác nhau với hình thức và mức độ khác nhau nên TCTD thường xuyên là nguyên đơn tại Toà án, do đó không chỉ bị ảnh hưởng đến hiệu quả thu hồi vốn, mà TCTD còn tốn công sức, nhân lực, thời gian, tiền bạc, trong qúa trình theo đuổi vụ kiện và ngay cả khi chiến thắng thì khả năng thu hồi vốn cũng khó xác định và không thể bù đắp được lượng vốn mà TCTD đã bỏ ra.
Điều 59 Nghị định 163/2006/NĐ-CP quy định về các phương thức xử lý tài sản bảo đảm theo thoả thuận thì TCTD được lựa chọn các hình thức xử lý đa dạng như: bán tài sản bảo đảm, nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm, nhận các khoản tiền hoặc tài sản từ người thứ ba trong trường hợp thế chấp quyền đòi nợ, phương thức khác do các bên thoả thuận.
Điều 63 Nghị định 163/2006/NĐ-CP ghi nhận “Bên giữ tài sản bảo đảm phải giao tài sản cho người xử lý theo thông báo của người này, nếu hết thời hạn ấn định trong thông báo mà bên giữa tài sản bảo đảm không giao tài sản thì người xử lý tài sản có quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo quy định tại Khoản 2 Điều này để xử lý hoặc yêu cầu Toà án giải quyết. Trong quá
trình thu giữ tài sản đảm bảo nếu bên giữ tài sản bảo đảm có dấu hiệu chống đối cản trở, gây mất an ninh trật tự nơi công cộng hoặc có hành vi vi phạm pháp luật thì người xử lý tài sản bảo đảm có quyền yêu cầu UBND cấp xã và cơ quan Công an nơi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình áp dụng các biện pháp theo quy
định của pháp luật để giữ gìn an ninh, trật tự bảo đảm cho người xử lý tài sản thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm.” Quy định này chỉ mang tính nguyên tắc, chưa có cơ chế đảm bảo thực hiện quyền này khi bên bảo đảm không hợp tác. Điều này, gây khó khăn cho tổ chức tín dụng trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ, và giải pháp trong trường hợp là khởi kiện nhưng những quy định về thủ tục và thời gian luôn là thách thức đối với các TCTD bởi việc thu hồi vốn chậm, mất nhiều thời gian và chi phí và ảnh hưởng
đến xếp hạng của TCTD .
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay - 7
- Đăng Ký Giao Dịch Bảo Đảm Tiền Vay Bằng Tài Sản Hình Thành Từ Vốn Vay
- Xử Lý Tài Sản Bảo Đảm Hình Thành Từ Vốn Vay Trong Giai Đoạn Tài Sản Đang Hình Thành
- Pháp Luật Về Xử Lý Tài Sản Hình Thành Từ Vốn Vay
- Hoàn Thiện Cơ Chế Thực Thi Pháp Luật
- Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay - 13
Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.
Thủ tục đăng ký quyền sử dụng, sở hữu đối với tài sản sau xử lý:
Trường hợp Ngân hàng nhận quyền sử dụng đất để thi hành án do khách hàng tự nguyện giao hoặc cơ quan thi hành án cưỡng chế giao theo quy định của pháp luật (Pháp lệnh thi hành án) nhưng cơ quan Tài Nguyên-Môi trường từ chối với lý do: (i) Chưa có văn bản hướng dẫn; hoặc (ii) Ngân hàng không có chức năng sử dụng đất đúng theo mục đích sử dụng trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; hoặc (iii) Việc chuyển quyền sử dụng đất chưa qua hình thức bán đấu giá. Tương tự tình huống trên là việc cơ quan công chứng không công chứng Hợp đồng mua bán nợ, nhận tài sản bảo đảm để khấu trừ nợ nên không thể chuyển quyền sở hữu tài sản được.
Ví dụ: Ngày 26/08/2006 Ngân hàng TMCP Nông thôn Đại á đã tiến hành thủ tục công chứng hợp đồng nhận 2000m2 của khách hàng Nguyễn Văn A để khấu trừ khoản nợ gốc và lãi của khoản vay 2,3 tỷ theo Hợp đồng tín dụng số 00001232004/HĐTD-DA. Tuy nhiên, khi yêu cầu công chứng, các công chứng viên đã từ chối việc công chứng trên với lý do Phòng công chứng chỉ xác nhận
Hợp đồng mua bán quyền sử dụng đất thông qua thủ tục bán đấu giá. Như vậy, việc không công chứng được đồng nghĩa với việc không hoàn tất thủ tục để chuyển quyền sở hữu, dù hai bên hoàn toàn tự nguyện và pháp luật cho phép nhưng Ngân hàng TMCP Nông thôn Đại á vẫn không thể nhận TSBĐ trên để khấu trừ nợ mặc dù yêu cầu của Ngân hàng là chính đáng và đúng pháp luật.
Chi phí cho việc thanh lý, phát mại tài sản thường rất lớn và thường Ngân hàng phải hạch toán vào chi phí hoạt động. Các chi phí bao gồm tạm ứng án phí, thuê luật sư, thuê tổ chức định giá tài sản phát mại và nhiều trường hợp Ngân hàng không thể thu hồi các khoản tiền trên do khách hàng không có khả năng thi hành án hoặc số tiền thu được từ phát mại tài sản thấp hơn chi phí mà TCTD đã bỏ ra hoặc quá trình xử lý tài sản bảo đảm của doanh nghiệp bị phá sản thường rất chậm trễ, trong khi tài sản lại bị khấu hao vô hình và hữu hình rất nhanh và phần thua thiệt là các ngân hàng phải gánh chịu.
Ngoài ra, đề nghị cơ quan ban hành pháp luật có hướng dẫn cụ thể trong trường hợp bảo đảm bằng quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng. Hiện nay, các quy định về nhận bảo đảm bằng quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng chưa rõ ràng không có quyền và nghĩa vụ của các bên khi nhận bảo đảm bằng tài sản này và gây khó khăn cho tổ chức tín dụng trong trường hợp xử lý tài sản bảo
đảm là quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng để thu hồi nợ. Trong Nghị định số 163/2006/NĐ-CP thì những quy định về xử lý tài sản bảo đảm là quyền tài sản cũng không đầy đủ. Chính điều này khiến cho các TCTD hạn chế việc nhận quyền tài sản bởi không có cơ chế cho việc xử lý.
2.2.6. Những khó khăn khác khi nhận bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay tại chính các tổ chức tín dụng
Ngoài các khó khăn chính đã nêu ở trên mà phần nhiều xuất phát từ các quy định pháp luật và việc áp dụng pháp luật thì một phần không nhỏ trong các khó khăn từ việc nhận bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay có nguyên nhân từ các tổ chức tín dụng. Hệ thống văn bản pháp luật nội bộ chưa
đầy đủ, nhiều văn bản chưa được xây dựng mà chỉ áp dụng các quy định của NHNN và pháp luật nên chưa có tính cá biệt hoá cho phù hợp với cơ cấu, tổ chức của riêng TCTD đó. Thậm chí, nhiều TCTD vẫn chưa ban hành những văn bản pháp lý quan trọng như bảng chấm điểm tín nhiệm, các quy trình nghiệp vụ liên quan đến cho vay, quản lý tài sản bảo đảm tiền vay nói chung vẫn chưa hoàn thiện. Điều đó dẫn đến không có sự phân loại khách hàng khi cho vay nhất là với các tài sản mang tính rủi ro cao như tài sản hình thành từ vốn vay.
Đó là chưa kể đến tình trạng các quy trình nghiệp vụ riêng cho từng sản phẩm thì hầu như chưa có trừ một số Ngân hàng lớn như Ngân hàng TMCP á Châu (ACB); Ngân hàng TMCP Sài Gòn thương tín;…Cùng với nó là việc triển khai phổ biến pháp luật, văn bản pháp luật nội bộ, việc đào tạo, trao đổi nghiệp vụ không được tổ chức hoặc tổ chức không thường xuyên. Trường hợp nêu trên là tình trạng phổ biến tại các TCTD mà quy mô hoạt động, mạng lưới chi nhánh còn ít, Ngân hàng mới chuyển đổi từ mô hình ngân hàng nông thôn lên ngân hàng đô thị. Song song với các bất cập trên là đội ngũ cán bộ nhân viên vẫn còn yếu về năng lực và kinh nghiệm. Việc cho vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay còn mới mẻ nên các tài liệu nghiên cứu, tổng kết, rút kinh nghiệm đối với loại tài sản này chưa nhiều. Do vậy, việc trang bị thông tin cần thiết cho cán bộ tín dụng, thẩm định quản lý đối với loại tài sản này vẫn còn hạn chế. Nhiều TCTD do quy mô còn nhỏ nên chưa có sự chuyên môn hoá trong các bộ phận tín dụng, thẩm định và tái thẩm định, chính sách tín dụng, quản lý tài sản bảo
đảm, xử lý nợ nên các cán bộ, nhân viên nhiều khi phải kiêm nhiệm nhiều việc, thậm chí một người thực hiện tất cả các công đoạn (trừ phê duyệt tín dụng) dẫn
đến việc không chuyên sâu, thậm chí đã xảy ra tình trạng thất lạc hồ sơ, một thời gian dài mà không bị phát hiện..v.v…Ngoài ra, do nhiều quy trình chưa tốt nên nhiều cán bộ đã cố tình làm sai quy định hay như đối tác thay đổi chiến lược hợp tác.
Ví dụ: Theo quy định của Ngân hàng TMCP X về quản lý tài sản bảo đảm thì mỗi tháng cán bộ tín dụng phải tiến hành kiểm tra giám sát TSBĐ một lần và mỗi lần thực hiện thì đều phải có biên bản kiểm tra. Tuy nhiên, do chưa nhận thức được vai trò của việc kiểm tra, giám sát nên nhiều cán bộ tín dụng đã làm việc một cách qua loa đại khái bằng cách đưa khách hàng ký sẵn vào Biên bản kiểm tra định kỳ mà không tiến hành kiểm tra trực tiếp và hậu quả là khách hàng đã thông đồng với đơn vị quản lý kho hàng tẩu tán tài sản gây thiệt hại cho TCTD. Nguyên nhân của tình trạng này chính là việc thiếu sự kiểm tra, kiểm soát nội bộ và của bộ phận giám sát tín dụng nên đã không khắc phục kịp thời để xử lý.
Với khoản vay có đảm bảo bằng tài sản hình thành từ vốn vay, do nhiều Ngân hàng chưa có bảng xếp hạng tín nhiệm và chấm điểm khách hàng nên việc cho vay không linh hoạt, không phân biệt được khác hàng tốt và xấu. Với mức vốn tự có tham gia vào dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đời sống tối thiểu bằng 15% tổng mức vốn đấu tư là có thể được TCTD xem xét cho vay, đồng thời nhận tài sản hình thành từ vốn vay làm tài sản bảo
đảm, một tỷ lệ vốn chủ sở hữu rất thấp (thậm chí nhiều trường hợp số vốn tự có cũng không hoàn toàn của TCTD) đã nẩy sinh tâm lý chủ quan, ỷ lại từ phía khách hàng. Nhiều khách hàng khi gặp khó khăn trong sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm chưa nỗ lực tìm biện pháp để tháo gỡ mà thường trông chờ, ỷ lại vào TCTD. Bởi theo họ, mức vốn tự có là 15% chiếm trong tổng giá trị dự
án, một tỷ lệ rất nhỏ so với tỷ lệ vốn của TCTD đã tham gia nên nếu dự án không hiệu quả thì trước hết, bên thiệt hại nhiều hơn là TCTD chứ không phải họ, vì vậy, khi được vay rồi, họ thường có những yêu sách không chính đáng, thậm chí vượt quá khả năng của các TCTD. Thực tế cho thấy một số TCTD đã lâm vào tình cảnh này nên đành phải gia hạn nợ, cho vay thêm hoặc tìm mọi biện pháp tháo gỡ để hạn chế rủi ro, nhưng kết quả thường không được như mong muốn. Đặc biệt với những dự án có giá trị lớn, thời gian thực hiện kéo
dài, việc theo dõi, quản lý tài sản bảo đảm thường phức tạp nên mức độ rủi ro càng gia tăng. Theo kết quả tổng hợp trong nội bộ một TCTD thì có đến 8/10 dự án có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay phải được định giá lại tài sản và cấp thêm vốn. Hơn nữa, TCTD còn bị ràng buộc bởi nhiều quy định khác như tỷ lệ lệ nợ xấu, xếp hạng nên TCTD sẽ phải nỗ lực để cứu họ. Cho vay với tài sản này thường phải ân hạn nợ nên giai đoạn đầu chưa thu được việc thu hồi lãi và vốn vay mà chỉ khi dự án hoạt động có lãi thì mới thu được. Nghiêm trọng hơn, một số khách hàng còn khai thác sự thông thoáng trên để lừa đảo. Thủ đoạn là lợi dụng sự sơ hở của TCTD trong quản lý, giám sát tài sản hình thành từ vốn vay, nhất là đối với hàng hoá tham gia vào dự án để nâng khống số lượng, giá trị vật tư, hàng hoá lên gấp nhiều lần so với số lượng, giá trị thực tế với mục đích rút hết phần vốn của họ, thậm chí rút sang cả vốn của TCTD đã đầu tư ra khỏi dự án nhằm chiếm đoạt. Hậu quả là không những dự án kém chất lượng hoặc không hoàn thành, không phát huy tác dụng mà giá trị đích thực của chúng, tức tài sản hình thành từ vốn vay cũng giảm đi rất nhiều. Vì vậy, nếu TCTD có áp dụng biện pháp xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ thì giá trị tài sản có khả năng xử lý thu hồi nợ là rất thấp so với số vốn TCTD đã đầu tư. Như vậy, rủi ro, tổn thất cho TCTD là rất lớn.
Trong chương này người viết đã tập trung phân tích các khó khăn, vướng mắc của các bên tham gia quan hệ giao dịch bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay trong lĩnh vực công chứng, đăng ký giao dịch bảo đảm, định giá tài sản bảo đảm hình thành từ vốn vay và xử lý tài sản bảo đảm. Nguyên nhân của những khó khăn trên phần nhiều do hệ thống pháp luật trong các lĩnh vực công chứng, đăng ký giao dịch bảo đảm và xử lý tài sản bảo đảm chưa đầy đủ, thiếu thống nhất. Ngoài ra, các vướng mắc trên còn có nguyên nhân từ việc áp dụng pháp luật mang tính chủ quan của các cá nhân, năng lực cán bộ hạn chế. Việc chỉ rõ các nguyên nhân, kết quả chính là cơ sở để người viết đưa ra đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật và cơ chế thực hiện tại chương 3 của luận văn này.
Chương 3
Các giải pháp nhằm thực hiện hiệu quả bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay
3.1. Hoàn thiện pháp luật:
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay ngày càng trở nên phố biến tại các tổ chức tín dụng. Việc thực hiện giao dịch này chịu sự điều chỉnh, chi phối của các quy định pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau: Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật nhà ở, Luật đất đai, Luật công chứng…cho đến pháp luật về giao dịch bảo đảm,
đăng ký giao dịch bảo đảm, pháp luật về bán đấu giá, pháp luật về thi hành
án….Do vậy, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật theo phương hướng sau:
Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải tuân thủ đúng trình tự thủ tục theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Ngôn ngữ, văn phong của văn bản cần rõ ràng, hạn chế sử dụng các từ ngữ chung chung như: “các quy
định khác”, “nếu pháp luật có quy định”.
Đối với văn bản đã ban hành thì các cơ quan tiếp tục thực hiện việc rà soát, phát hiện và kịp thời đề xuất để ban hành văn bản sửa đổi, bổ sung những quy định pháp luật bất cập, không phù hợp với thực tế. Tuy nhiên, văn bản
được ban hành để sửa đổi, bổ sung, giải thích quy phạm pháp luật phải là văn bản pháp quy. Các cơ quan ban hành văn bản cần hạn chế đến mức thấp nhất việc ban hành Công văn để hướng dẫn, giải thích Luật bởi Công văn là văn bản
được ban hành nhằm hướng dẫn và giải quyết những tình huống cụ thể, được áp
dụng cho các chủ thế được liệt kê tại Công văn đó. Mặt khác, do Công văn không phải văn bản quy phạm pháp luật, không được đăng công báo nên Công văn không thể phổ biến rộng đến mọi đối tượng chịu sự điều chỉnh của các hướng dẫn này. Điều này sẽ tạo nên sự không công bằng đối với các chủ thể trong xã hội do việc bị hạn chế tiếp cận nguồn thông tin. Hơn nữa, công tác xây dựng và tuyên truyền pháp luật của chúng ta vẫn còn yếu, trong quá trình xây dựng văn bản pháp luật, rất nhiều bên có liên quan đã không được tham gia
đóng góp ý kiến nên những đối tượng này thường cho rằng quyền lợi họ chưa
được đảm bảo nên khi pháp luật được ban hành không nhận được sự đồng tình của các đối tượng này. Do vậy, cần đẩy mạnh công tác lấy ý kiến đóng góp của nhân dân thông qua mạng vi tính và tăng cường việc tổng hợp ý kiến ngay từ khi soạn thảo để nội dung tư tưởng của pháp luật có sự ngấm sâu với mọi tầng lớp nhân dân, giúp họ có thái độ tiếp nhận và thực thi tốt.
Quy định về hiệu lực của văn bản cần rõ ràng, cụ thể giúp các chủ thể thực thi pháp luật nhận biết và có cơ sở thực hiện.
Ngoài ra, cần tăng cường việc trao đổi, phối hợp, đóng góp ý kiến giữa các cơ quan soạn thảo trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Đây là yếu tố quan trọng để hạn chế tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo giữa các văn bản điều chỉnh cùng một lĩnh vực do nhiều cơ quan khác nhau ban hành. Tuy nhiên, hiện nay, việc lấy ý kiến vẫn còn mang tính thủ công, hình thức, phương pháp góp ý và tổng hơp chưa cao nên tính hiệu quả không cao. Vì vậy, trong tương lai việc này cần phải nghiên cứu và khắc phục sớm.
Trên đây là những kiến nghị mang tính chất khái quát nhằm nâng cao tính thống nhất trong hệ thống văn bản pháp luật dân sự. Trong phần tiếp theo, người viết sẽ đề xuất các kiến nghị cụ thể cho từng lĩnh vực:
3.1.1. Định giá tài sản hình thành từ vốn vay:
Ban hành hệ thống văn bản pháp luật về định giá tài sản, trong đó có sự tham khảo và tiếp thu các quy định về tiêu chuẩn định giá của Uỷ ban Tiêu