Tài Sản Bảo Đảm Tiền Vay Hữu Hình Và Tài Sản Bảo Đảm Tiền Vay Vô Hình

các chủ thể tham gia giao dịch được mở rộng; thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các loại chủ nợ khác nhau được xác định rõ hơn, quyền của tổ chức tín dụng trong một số trường hợp cụ thể,...

Mới đây nhất là Thông tư liên tịch số 01/2014/TTLT-NHNN-BXD- BTP-BTNMT ngày 25/04/2014 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Xây dựng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Hướng dẫn thủ tục thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai, Thông tư liên tịch số 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN ngày 06/06/2014 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Hướng dẫn về xử lý tài sản bảo đảm,... Sự ra đời của các văn bản này cũng đã tác động lớn đến hệ thống pháp luật về giao dịch bảo đảm nói chung và thế chấp tài sản tại các tổ chức tín dụng nói riêng.

Tuy nhiên trong quá trình hoạt động, các tổ chức tín dụng vẫn gặp phải những khó khăn, vướng mắc liên quan đến giao dịch bảo đảm và công chứng,.... Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như: Việc không thống nhất trong áp dụng các quy định pháp luật có liên quan của các cán bộ tại tổ chức hành nghề công chứng, cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, cơ quan tư pháp,...

1.1.3.Đặc điểm của giao dịch bảo đảm tiền vay

Cũng là một dạng giao dịch theo quy định của pháp luật dân sự, giao dịch bảo đảm tiền vay cũng có những đặc điểm chung của giao dịch dân sự và những đặc điểm đặc thù của giao dịch bảo đảm, cụ thể như sau:

Thứ nhất, giao dịch bảo đảm tiền vay mang tính chất bổ sung cho nghĩa vụ chính từ hợp đồng cấp tín dụng:

Các biện pháp bảo đảm tiền vay xuất hiện nhằm bảo đảm cho nghĩa vụ vay tiền được thực hiện khi đến hạn, vì thế các nghĩa vụ bảo đảm tồn tại với

tính chất là một nghĩa vụ phụ bên cạnh nghĩa vụ chính. Điều này có thể thấy qua việc nghĩa vụ bảo đảm không thể tồn tại một cách độc lập mà phụ thuộc gắn liền với nghĩa vụ được bảo đảm (ở đây là nghĩa vụ trả nợ của Bên vay). Đồng thời, nghĩa vụ bảo đảm phải phù hợp với nghĩa vụ được bảo đảm (về thời gian, nội dung, hiệu lực của biện pháp bảo đảm là phụ thuộc vào nghĩa vụ chính) và khi nghĩa vụ được bảo đảm chấm dứt thì nghĩa vụ bảo đảm cũng chấm dứt.

Trong trường hợp Bên cho vay chuyển giao quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ chính cho một Bên thứ ba, thì Bên thứ ba cũng có quyền yêu cầu Bên vay thực hiện nghĩa vụ bảo đảm. Việc nghĩa vụ bảo đảm bị vô hiệu, bị đơn phương chấm dứt thực hiện hay bị hủy bỏ không ảnh hưởng tới hiệu lực của nghĩa vụ chính (trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác).

Thứ hai, giao dịch bảo đảm tiền vay mang tính chất dự phòng, chỉ được áp dụng khi nghĩa vụ được bảo đảm không được thực hiện hoặc bị vi phạm, đồng thời phạm vi bảo đảm không vượt quá phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.

Thứ ba, đối tượng giao dịch bảo đảm tiền vay là những lợi ích vật chất.

Bắt nguồn từ mục đích của biện pháp bảo đảm tiền vay là nhằm bảo đảm việc thưc hiện nghĩa vụ của Bên vay nên trong các giao dịch bảo đảm đều phát sinh việc Bên vay hoặc Bên thứ ba xác lập cho Bên cho vay quyền lợi vật chất nhất định. Đó là quyền được xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ vay trong trường hợp Bên vay không hoàn trả đầy đủ, hoặc không thực hiện đầy đủ trách nhiệm như đã giao kết khi vay tiền.

Thế chấp tài sản trong hoạt động của tổ chức tín dụng tại Việt Nam - 3

Thứ tư, mục đích của việc xác lập giao dịch bảo đảm tiền vay là nhằm tạo cơ sở kinh tế, pháp lý để Bên có quyền (Bên nhận bảo đảm) thu hồi nợ.

Hoạt động cho vay tài sản là một hoạt động mang nhiều rủi ro đối với Bên cho vay. Chính vì vậy, sự xuất hiện của các biện pháp bảo đảm tiền vay đã giúp hạn chế hoặc loại trừ hoàn toàn những rủi ro này đối với Bên cho vay

và bảo đảm an toàn cho hệ thống tín dụng cũng như bảo đảm thực hiện các nghĩa vụ đã được giao kết giữa Bên vay và Bên cho vay.

Việc xác lập giao dịch bảo đảm tiền vay còn giúp cho quyền đòi nợ của những chủ nợ này có thứ tự ưu tiên thanh toán cao hơn so với quyền đòi nợ của các chủ nợ không có bảo đảm đối với tài sản đó.

Thứ năm, giao dịch bảo đảm tiền vay có hiệu lực không phụ thuộc vào hợp đồng chính.

Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, giao dịch bảo đảm là một dạng hợp đồng phụ, tuy nhiên không giống như các hợp đồng phụ khác có hiệu lực phụ thuộc vào hiệu lực của hợp đồng chính, giao dịch bảo đảm có hiệu lực không phụ thuộc vào hợp đồng chính. Có nghĩa rằng, nếu hợp đồng chính vô hiệu thì giao dịch bảo đảm vẫn có hiệu lực pháp lý. Như vậy, trong quan hệ tín dụng, nếu hợp đồng tín dụng vô hiệu thì tổ chức tín dụng chỉ mất lãi nhưng nếu hợp đồng bảo đảm vô hiệu, thì tổ chức tín dụng sẽ mất cả gốc lẫn lãi.

1.2. Phân loại giao dịch bảo đảm tiền vay

Có nhiều cách phân loại giao dịch bảo đảm tiền vay dựa trên những tiêu chí khác nhau. Cụ thể như sau:

1.2.1.Bảo đảm đối nhân và bảo đảm đối vật

Theo một số nghiên cứu, pháp luật của các nước trong hệ thống Civil Law thường phân biệt những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thành hai nhóm: Các biện pháp bảo đảm đối vật và các biện pháp bảo đảm đối nhân. Sự phân biệt này nhằm xác định rõ quyền, nghĩa vụ của các bên và từ đó có phương pháp điều chỉnh các mối quan hệ có liên quan một cách tương ứng.

Bảo đảm tiền vay đối vật là hình thức bảo đảm mà quyền của tổ chức tín dụng được xác lập trực tiếp trên một vật cụ thể thuộc sở hữu của Bên bảo đảm nhằm bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán của khách hàng

vay. Đối tượng của nó là tài sản của Bên có nghĩa vụ hoặc Bên thứ ba; tổ chức tín dụng có quyền được yêu cầu xử lý tài sản đó theo quy định của pháp luật hoặc theo thỏa thuận để thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm. Cầm cố và thế chấp là hai biện pháp bảo đảm đối vật cơ bản. Theo đó, đối với giao dịch bảo đảm tiền vay, tài sản này có thể thuộc sở hữu của Bên vay hoặc Bên thứ ba, có thể là tài sản vô hình hoặc hữu hình, có thể là động sản hay bất động sản. Khi xảy ra tranh chấp, hoặc Bên vay không thực hiện đúng những nghĩa vụ của mình, tài sản bảo đảm tiền vay sẽ là đối tượng được xử lý nhằm thu hồi khoản tiền mà tổ chức tín dụng đã cho khách hàng vay.

Bảo đảm tiền vay đối nhân là bảo đảm mà Bên thứ ba cam kết với tổ chức tín dụng về việc thực hiện nghĩa vụ thay cho Bên vay khi đến hạn mà Bên vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã thỏa thuận. Biện pháp bảo đảm đối nhân có tính chất tiêu biểu là Bảo lãnh. Khác với biện pháp bảo đảm đối vật, tài sản bảo đảm trong biện pháp bảo đảm đối nhân không được xác định cụ thể, mà là toàn bộ tài sản của Bên bảo đảm. Việc cá thể hóa tài sản nào được phát mại để thanh toán cho Bên cho vay thường được tiến hành sau khi đến hạn mà Bên vay không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng thỏa thuận. Theo đó, với giao dịch bảo đảm tiền vay, khi xảy ra tranh chấp hoặc Bên vay không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, thì trách nhiệm cá nhân của người bảo đảm sẽ là đối tượng được sử dụng nhằm lấy lại khoản tiền mà tổ chức tín dụng đã cho vay. Trách nhiệm cá nhân này thường được xác lập bởi một Bên thứ ba.

1.2.2.Bảo đảm tiền vay bằng tài sản và bảo lãnh

Bảo đảm tiền vay bằng tài sản là các phương thức bảo đảm mà khoản vay của khách hàng tại tổ chức tín dụng được được bảo đảm bằng một loại tài sản. Chính vì vậy, hình thức bảo đảm này sẽ hạn chế bớt rủi ro cho các tổ chức tín dụng vì tổ chức tín dụng có thể xác lập quyền đối với một tài sản

nhất định, khi khách hàng vay vi phạm nghĩa vụ trả nợ, tổ chức tín dụng có căn cứ để thực hiện việc xử lý tài sản bảo đảm nhằm thu hồi nợ. Đây cũng là phương thức bảo đảm phổ biến tại các tổ chức tín dụng.

Bảo lãnh là phương thức bảo đảm tiền vay mà khoản vay không được bảo đảm bằng một tài sản. Điều 361 về “Bảo lãnh”, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:

Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là Bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là Bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho Bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là Bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà Bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thoả thuận về việc Bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi Bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình [26, Điều 361].

Ở đây tổ chức tín dụng có thể chọn lựa khách hàng vay của mình, dựa trên nhiều yếu tố khác nhau để cho khách hàng vay như: Dựa trên uy tín của khách hàng vay, uy tín của một bên thứ ba, bảo lãnh của nhà nước,...

1.3. Tài sản bảo đảm tiền vay

1.3.1.Khái niệm tài sản bảo đảm tiền vay

Như đã nêu trên, các hệ thống pháp luật khác nhau đưa ra các khái niệm khác nhau về tài sản bảo đảm tiền vay. Theo nhiều nghiên cứu, thì: Các nước theo hệ thống pháp luật Civil Law, về nguyên tắc, mọi tài sản đều có thể là tài sản bảo đảm, tuy nhiên, phạm vi những tài sản này còn phụ thuộc vào từng biện pháp bảo đảm cụ thể và việc phân định phạm vi tài sản bảo đảm chủ yếu được thực hiện đối với hai biện pháp bảo đảm là cầm cố và thế chấp.

Đối với các nước theo hệ thống pháp luật Common Law tài sản bảo đảm được chia chủ yếu thành động sản và bất động sản, tùy theo tính chất của

tài sản bảo đảm là động sản hay bất động sản mà áp dụng theo quy định pháp luật khác nhau đối với việc thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản đó. Theo đó, phạm vi tài sản bảo đảm được quy định rất rộng: Đối với động sản, mọi tài sản được phép giao dịch đều có thể được sử dụng làm tài sản bảo đảm, bao gồm cả tài sản vô hình và tài sản hữu hình, tài sản hiện có và hình thành trong tương lai.

Hiện nay, trong hệ thống pháp luật Việt Nam có nhiều quy định liên quan đến tài sản bảo đảm, cụ thể như:

- Khoản 7, Điều 3 về “Giải thích từ ngữ”, Nghị định số 163/2006/NĐ- CP Về giao dịch bảo đảm quy định: “Tài sản bảo đảm là tài sản mà Bên bảo đảm dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với Bên nhận bảo đảm.” [11, khoản 7, Điều 3].

- Điều 4 về “Tài sản bảo đảm”, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP Về giao dịch bảo đảm đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 11/2012/NĐ-CP quy định: “Tài sản bảo đảm là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai mà pháp luật không cấm giao dịch.” [11, Điều 4].

- Điều 320 về “Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:

1. Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm và được phép giao dịch.

2. Vật dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là vật hiện có hoặc được hình thành trong tương lai. Vật hình thành trong tương lai là động sản, bất động sản thuộc sở hữu của Bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc giao dịch bảo đảm được giao kết [26, Điều 320].

Xét tổng thể, các quy định nêu trên đã bao hàm một phạm vi rất rộng các tài sản có thể sử dụng làm tài sản bảo đảm. Tuy nhiên theo quy định tại khoản 1, Điều 320 về “Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”, Bộ luật Dân

sự năm 2005: Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự phải thuộc quyền sở hữu của Bên bảo đảm chưa thực sự phù hợp với đối tượng là tài sản hình thành trong tương lai vì vào thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm, những tài sản này chưa hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của Bên có nghĩa vụ hoặc Bên thứ ba. Ví dụ đối với nhà ở hình thành trong tương lai, vào thời điểm xác lập giao dịch thế chấp, tài sản này mặc dù đã hình thành nhưng chưa thuộc sở hữu của Bên bảo đảm vì quyền sở hữu đối với tài sản này chỉ được xác lập khi chủ sở hữu được cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

1.3.2.Phân loại tài sản bảo đảm tiền vay


Có nhiều cách phân loại tài sản bảo đảm tiền vay tùy thuộc vào các tiêu chí khác nhau, chẳng hạn:

1.3.2.1. Tài sản bảo đảm tiền vay hữu hình và tài sản bảo đảm tiền vay vô hình

Tài sản bảo đảm tiền vay hữu hình là tài sản tồn tại hiện hữu của Bên vay hoặc Bên thứ ba. Tài sản hữu hình có thể là vật, hàng hóa. Về nguyên tắc, tổ chức tín dụng có thể nắm giữ, quản lý trực tiếp những loại tài sản này.

Tài sản bảo đảm tiền vay vô hình là những tài sản phi vật chất của Bên vay hoặc Bên thứ ba. Tải sản vô hình có thể là quyền sở hữu công nghiệp, quyền tác giả, quyền sử dụng đất hoặc các quyền khác. Tổ chức tín dụng có thể cầm giữ các quyền này thông qua việc nắm giữ các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu, quyền sử dụng các loại tài sản này của Bên vay hoặc Bên thứ ba.

1.3.2.2. Tài sản bảo đảm tiền vay là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai

Tài sản bảo đảm tiền vay hiện có là tài sản bảo đảm tiền vay đang tồn tại và thuộc sở hữu của Bên vay hoặc Bên thứ ba. Ví dụ như: Phương tiện vận

chuyển đã được đăng ký sở hữu, hàng hóa, nhà ở đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất,...

Tài sản bảo đảm tiền vay hình thành trong tương lai là loại tài sản bảo đảm tiền vay sẽ thuộc sở hữu của Bên vay hoặc Bên thứ ba trong tương lai. Tài sản hình thành trong tương lai này không có nghĩa là nó chưa tồn tại một cách vật chất, tài sản đó hoàn toàn có thể đã tồn tại một cách vật chất khi giao dịch bảo đảm được xác lập, tuy nhiên quyền sở hữu của Bên bảo đảm đối với tài sản thì lại được xác lập sau thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm tiền vay. Ví dụ như nhà ở đã hoàn thành nhưng chưa được cấp chứng nhận quyền sở hữu vào thời điểm xác lập hợp đồng thế chấp.

1.4. Thế chấp tài sản

1.4.1.Khái niệm thế chấp tài sản

Về mặt ngữ nghĩa, thì thế chấp tài sản là việc một bên dùng một tài sản để thay thế, chấp hành một nghĩa vụ được xác lập trước đó. Tuy nhiên nhiều trường hợp tài sản đó không thể chuyển giao được cho bên có quyền như nhà đang ở, quyền sử dụng đất, nhà xưởng đang sản xuất, hàng hóa luân chuyển,… Do vậy, Bên thế chấp dùng giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản này giao cho Bên có quyền hay Bên nhận thế chấp giữ.

Khoản 1, Điều 342 về “Thế chấp tài sản”, Bộ luật Dân sự năm 2005 đưa ra khái niệm: “Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp) và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp.” [26, khoản 1, Điều 342].

Căn cứ theo quy định nêu trên có thể hiểu biện pháp thế chấp tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó Bên thế chấp cam kết dùng tài sản của

Xem tất cả 96 trang.

Ngày đăng: 09/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí