1. Đối với Hợp đồng mua bán, cho thuê tài sản hoặc cung cấp dịch vụ
- Nội dung và hình thức của Hợp đồng kinh tế phải phù hợp với quy định của pháp luật.
- Trong Hợp đồng kinh tế cần có điều khoản quy định về việc cho phép hoặc không cấm việc chuyển quyền thụ hưởng quyền đòi nợ cho Bên thứ ba hoặc Đơn vị kinh doanh DongAbank.
2. Đối với Quyền đòi nợ
- Thời hạn thanh toán còn lại trong Hợp đồng kinh tế không quá 12 tháng và phải được thực hiện thông qua tài khoản của Khách hàng vay vốn tại DongAbank.
- Được chuyển quyền thụ hưởng cho Đơn vị kinh doanh DongAbank theo quy định tại Hợp đồng kinh tế và theo Văn bản về chuyển giao quyền đòi nợ đã ký giữa ba bên.
- Được đăng ký giao dịch bảo đảm, kể cả quyền đòi nợ hình thành trong tương lai [16, Điều 9].
Tại Ngân hàng TMCP Xăng dầu Petrolimex, quyền đòi nợ phải đáp ứng điều kiện sau:
1. Quyền đòi nợ đối với bên thứ ba là doanh nghiệp hoặc cơ quan, tổ chức có uy tín, đảm bảo khả năng thanh toán.
Các loại hình doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức bao gồm:
Có thể bạn quan tâm!
- Khái Niệm, Đặc Điểm Bảo Đảm Tiền Vay Bằng Quyền Đòi Nợ Tại Tổ Chức Tín Dụng
- Nội Dung Của Pháp Luật Về Bảo Đảm Tiền Vay Bằng Quyền Đòi Nợ Tại Tổ Chức Tín Dụng
- Quy Định Của Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Liên Quan Đến Bảo Đảm Tiền Vay Bằng Quyền Đòi Nợ
- Hợp Đồng Bảo Đảm Tiền Vay Bằng Quyền Đòi Nợ Tại Tổ Chức Tín Dụng
- Quyền Và Nghĩa Vụ Của Các Bên Trong Hợp Đồng Bảo Đảm
- Tranh Chấp Và Giải Quyết Tranh Chấp Về Bảo Đảm Tiền Vay Bằng Quyền Đòi Nợ Tại Tổ Chức Tín Dụng
Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.
- Doanh nghiệp nhà nước,
- Công ty liên doanh,
- Công ty 100% vốn nước ngoài,
- Công ty cổ phần
- Công ty trách nhiệm hữu hạn,
- Các cơ quan, tổ chức là các cơ quan hành chính sự nghiệp, các ban quản lý dự án do các cơ quan quản lý nhà nước thành lập (các Bộ, ngành, UBND tỉnh, UBND huyện), mà có nguồn thanh toán cho quyền đòi nợ từ vốn ngân sách nhà nước.
Khi nhận tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ các đơn vị kinh doanh phải tiến hành thẩm định được bên cam kết trả nợ để khẳng định được uy tín và khả năng thanh toán quyền đòi nợ.
2. Bên thứ ba nếu là công ty cổ phần, công ty TNHH phải đảm bảo tối thiểu các điều kiện sau:
- Lịch sử hoạt động: đã hoạt động sản xuất kinh doanh từ 03 năm trở lên
- Tình hình tài chính (thời điểm gần nhất hoặc cuối năm tài chính gần nhất, có báo cáo tài chính để chứng minh số liệu):
- Doanh thu năm gần nhất: từ 100 tỷ VNĐ trở lên,
- Kết quả kinh doanh: Tỷ lệ lợi nhuận/vốn chủ sở hữu năm tài chính gần nhất: từ 10% trở lên và lợi nhuận lũy kế đến năm tài chính gần nhất > 0.
- Tổng tài sản: Từ 50 tỷ đồng trở lên,
- Tỷ lệ tự tài trợ: Không thấp hơn 30%
- Chỉ tiêu khả năng thanh toán ngắn hạn (tài sản lưu động/tổng nợ ngắn hạn) không thấp hơn 120%.
- Quan hệ giữa bên thứ ba và khách hàng của PG Bank (Bên thế chấp quyền đòi nợ) không phải là các công ty trong cùng một tập đoàn hoặc cùng chung một nhóm chủ sở hữu góp vốn.
- Uy tín trong thanh toán công nợ đối với khách hàng của PG Bank: là đối tác thường xuyên, có quan hệ mua bán với khách hàng của PG Bank từ 03 lần trở lên, trong quá trình giao dịch, bên thứ ba chưa vi phạm cam kết thanh toán với khách hàng của PG Bank.
3. Quyền đòi nợ đã phát sinh thực sự:
- Khách hàng của PG Bank đã hoàn thành xong một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ với bên thứ ba (thực hiện việc bàn giao hàng hóa, thi công xây lắp, cung cấp dịch vụ…), đã có biên bản đối chiếu công nợ và bên thứ ba có nghĩa vụ trả tiền cho khách hàng của PG Bank (Bên thế chấp).
- Bên thứ ba khi thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho khách hàng của PG Bank thì cam kết chuyển tiền bằng chuyển khoản về tài khoản của khách hàng tại PG Bank [15, Điều 14].
Để quyền đòi nợ nhận làm tài sản bảo đảm thỏa mãn các điều kiện đã đặt ra, các TCTD đều thực hiện thẩm định, kiểm tra Hợp đồng làm phát sinh quyền đòi nợ, các hóa đơn, chứng từ rất kỹ lưỡng để xác định liệu quyền đòi nợ do bên bảo đảm đề xuất dùng làm tài sản bảo đảm có thỏa mãn các điều kiện này hay không. Việc thẩm định quyền đòi nợ thỏa mãn được các điều kiện này có ý nghĩa đảm bảo cho hợp đồng bảo đảm không bị vô hiệu, cũng như để thuận lợi cho TCTD khi phải xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ vay.
Thực tế hiện nay là, mỗi TCTD tự đặt ra các điều kiện khác nhau về quyền đòi nợ nhận làm tài sản bảo đảm nên áp dụng cách thức kiểm tra, thẩm định điều kiện về quyền đòi nợ cũng khác nhau. Có TCTD đưa ra các điều kiện rất "thông thoáng" nhưng cũng có những TCTD lại yêu cầu rất nhiều điều kiện "khá chặt chẽ" cho bên bảo đảm. Điều này xuất phát từ thực trạng quy định không đầy đủ và thiếu rõ ràng của pháp luật hiện hành về điều kiện của quyền đòi nợ dùng làm tài sản bảo đảm, trong khi TCTD luôn đứng trước yêu cầu vừa phải phòng tránh các rủi ro pháp lý có thể xảy ra để đảm bảo an toàn hoạt động, vừa phải thúc đẩy hoạt động cho vay phát triển theo những chỉ tiêu, kế hoạch đã đặt ra. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần sớm xem xét ban hành văn bản pháp luật quy định cụ thể về điều kiện của quyền
đòi nợ được dùng làm tài sản bảo đảm, hướng dẫn cách thức kiểm tra, thẩm định quyền đòi nợ dùng làm tài sản bảo đảm nhằm tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho TCTD thực hiện trên thực tế.
Ngoài việc xem xét các điều kiện về bên bảo đảm, về quyền đòi nợ, hầu hết các TCTD còn đưa ra yêu cầu đối với Bên nợ Khách hàng vay vốn. Việc các TCTD đưa ra yêu cầu bắt buộc đối với Bên nợ Khách hàng vay vốn là xuất phát từ đặc thù của việc nhận tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ. Nếu như nhận các tài sản bảo đảm khác, TCTD chỉ phải thẩm định Khách hàng vay vốn, thì với sản phẩm cho vay nhận thế chấp tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ, TCTD thường sẽ thẩm định cả Bên nợ Khách hàng vay vốn. Thẩm định Bên nợ Khách hàng vay vốn thực chất cũng là thẩm định tài sản bảo đảm. Bởi lẽ, khi Khách hàng vay vốn vi phạm các cam kết trả nợ, thì TCTD phải xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Mà việc xử lý tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ có đạt hiệu quả cao, có thu hồi được đầy đủ khoản vay hay không lúc này phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng trả nợ của Bên nợ Khách hàng vay vốn. Và việc có thu hồi được nợ hay không phụ thuộc vào ý chí trả nợ cũng như khả năng tài chính của Bên nợ Khách hàng vay vốn. Đi đòi nợ Khách hàng vay vốn đã khó, nay lại đi đòi nợ Bên nợ Khách hàng vay vốn còn khó hơn.
Pháp luật hiện hành không có quy định bắt buộc về Bên nợ Khách hàng vay vốn, tuy nhiên, để tự giới hạn rủi ro cho mình, các TCTD đưa ra những yêu cầu bắt buộc đối với Bên nợ Khách hàng vay vốn. Cũng do không có quy định bắt buộc của pháp luật nên mỗi TCTD khác nhau cũng đưa ra những điều kiện bắt buộc về Bên nợ Khách hàng vay vốn khác nhau.
Ví dụ như ở NHTMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank), thì Bên nợ Khách hàng vay vốn phải đáp ứng đồng thời những điều kiện sau:
1. Đang hoạt động hợp pháp, ổn định;
2. Đã có thời gian hoạt động tối thiểu là 03 năm;
3. Là các Tập đoàn kinh tế lớn; các Tổng Công ty 90,91; các Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, bưu chính, viễn thông, hàng không, hàng hải, khai thác khoáng sản và các công ty liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài có thương hiệu nổi tiếng. Các Đơn vị này sẽ được Tổng Giám đốc quy định trong từng thời kỳ.
4. Nếu các Đơn vị đã đáp ứng đầy đủ các điều kiện khác nhưng không thuộc đối tượng nêu tại Điểm c khoản 3 Điều này thì Đơn vị kinh doanh Techcombank phải trình về Trụ sở chính xem xét phê duyệt [17, Điều 4].
2.2.2. Trình tự, thủ tục nhận tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ tại tổ chức tín dụng
Cũng như nhận các tài sản bảo đảm khác, khi nhận quyền đòi nợ để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ tiền vay của bên vay, TCTD phải thực hiện theo một trình tự, thủ tục phù hợp với quy định của pháp luật và với thực tế hoạt động tại TCTD đó.
Cho đến nay, hệ thống văn bản pháp luật về giao dịch bảo đảm nói chung được thiết lập khá đầy đủ; trình tự, thủ tục nhận các tài sản như đất đai, nhà ở được quy định tại nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Tuy nhiên, đối với trình tự, thủ tục nhận tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ lại chưa được quy định riêng tại bất kỳ văn bản pháp luật nào.
Vì vậy, trên thực tế, căn cứ vào những quy định của pháp luật về nhận tài sản bảo đảm nói chung như BLDS năm 2005, Nghị định số 163, Nghị định số 83, Nghị định số 11, các TCTD đều tự xây dựng các quy định, hướng dẫn về trình tự, thủ tục nhận tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ để thực hiện phù hợp với đặc điểm hoạt động của chính TCTD đó. Do đó, trình tự, thủ tục nhận quyền đòi nợ làm tài sản bảo đảm của các TCTD thường khác nhau, mỗi
TCTD thực hiện theo một trình tự riêng biệt, dù rằng các TCTD đều hướng tới mục tiêu thực hiện biện pháp bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ phù hợp quy định pháp luật, phù hợp với tình hình thực tế của bên bảo đảm, của chính TCTD cũng như phù hợp với tính chất, đặc điểm của tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ.
Qua tìm hiểu thực tế cũng như có cơ hội tìm hiểu các quy định nội bộ về nghiệp vụ cho vay có bảo đảm bằng quyền đòi nợ tại một số TCTD có thể thấy rằng các TCTD thực hiện nghiệp vụ này theo trình tự gồm nhiều bước khác nhau, kèm theo đó yêu cầu bên vay, bên bảo đảm cung cấp các loại hồ sơ, tài liệu khác nhau, cũng như yêu cầu các tổ chức, cá nhân liên quan phối hợp thực hiện nhận tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ.
Ví dụ như tại Ngân hàng TMCP Xăng dầu Petrolimex (PG Bank) quy trình thực hiện gồm các bước như kiểm tra điều kiện bảo đảm (điều kiện về quyền đòi nợ nhận bảo đảm, điều kiện về bên bảo đảm), định giá quyền đòi nợ và xác định giá trị cho vay tối đa so với giá trị định giá quyền đòi nợ, thẩm định Khách hàng vay vốn, thẩm định Bên nợ Khách hàng vay vốn, ký kết hợp đồng bảo đảm bằng quyền đòi nợ, ký kết thỏa thuận ba bên về chuyển tiền thanh toán qua tài khoản của Khách hàng vay vốn mở tại PG Bank, quản lý quyền đòi nợ bảo đảm, đăng ký giao dịch bảo đảm, tất toán khoản vay. Trong khi, tại Ngân hàng Đông Nam Á (SEABank) thủ tục nhận quyền đòi nợ làm tài sản bảo đảm là thu thập và thẩm định hồ sơ khách hàng, kiểm tra và thẩm định Bên nợ Khách hàng vay vốn, soạn thảo và ký các hợp đồng, mẫu biểu (hợp đồng bảo đảm quyền đòi nợ, cam kết ba bên).
Khi khách hàng có nhu cầu vay vốn tại ngân hàng với tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ, nhân viên ngân hàng sẽ đánh giá nhu cầu vay vốn đồng thời với đánh giá tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ. Mà đánh giá quyền đòi nợ ở đây chủ yếu xem khả năng tài chính của bên có nghĩa vụ trả nợ tức Bên nợ
Khách hàng vay vốn. Nhận tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ, lúc này các TCTD thường phải xem xét, đánh giá Bên nợ Khách hàng vay vốn. Vì trong trường hợp Khách hàng vay vốn không có khả năng trả nợ hoặc không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng thì ngân hàng phải xử lý tài sản bảo đảm, tức ngân hàng phải quay ra yêu cầu Bên nợ Khách hàng vay vốn phải trả nợ trực tiếp cho ngân hàng.
Nhận tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ, hầu hết các TCTD đều yêu cầu ký cam kết ba bên về việc Bên nợ Khách hàng vay vốn thanh toán trực tiếp cho TCTD thông qua tài khoản của Khách hàng vay vốn mở tại TCTD. Thỏa thuận thanh toán trực tiếp cho TCTD thông qua tài khoản của Khách hàng vay vốn mở tại TCTD này có thể được lập thành một Văn bản riêng biệt cũng có thể là một điều khoản thỏa thuận trong Hợp đồng bảo đảm ba bên. Có TCTD còn yêu cầu khách hàng ký Văn bản thỏa thuận chuyển giao quyền đòi nợ giữa ba bên. Sở dĩ TCTD yêu cầu ký cam kết ba bên về việc thanh toán trực tiếp cho TCTD là để quản lý, giám sát quá trình thực hiện nghĩa vụ thanh toán giữa Khách hàng vay vốn và Bên nợ Khách hàng vay vốn cũng đồng thời là giám sát, quản lý tài sản bảo đảm, tránh trường hợp Bên nợ Khách hàng vay vốn đã trả hết nợ cho Khách hàng vay vốn mà TCTD không nắm được, dẫn đến tài sản bảo đảm là khoản nợ sẽ không còn, đồng nghĩa với việc thất thoát tài sản bảo đảm.
Nhìn chung, nhận tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ không được các TCTD hào hứng đón nhận như là các tài sản bảo đảm khác. Một mặt vì bản thân nó đã tiềm ẩn rủi ro về khả năng trả nợ của bên có nghĩa vụ mặt khác vì chưa có quy định pháp luật rõ ràng, bảo vệ quyền lợi của TCTD.
Vì vậy, trong giai đoạn nền kinh tế đang diễn biến phức tạp như hiện nay và khi hành lang pháp lý cho việc nhận tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ chưa được thiết lập rõ ràng, an toàn, thì các TCTD nên thận trọng và cân nhắc giữa lợi nhuận và rủi ro trước khi quyết định nhận tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ.
2.3. Phạm vi bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ
Tùy theo thỏa thuận giữa ngân hàng và Khách hàng vay vốn mà phạm vi bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ khác nhau. Nếu Khách hàng vay vốn được đánh giá ở mức độ xếp hạng tín nhiệm cao, dự án sản xuất, kinh doanh khả thi, Bên nợ Khách hàng vay vốn cũng có năng lực tài chính tốt thì Khách hàng vay vốn có thể được vay với số tiền tương ứng 50% hoặc 70% hoặc thậm chí 100% giá trị tài sản phát sinh từ quyền đòi nợ.
Trong quy trình nhận tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ của các TCTD, việc định giá quyền đòi nợ được thực hiện ngay sau khi hoặc đồng thời với việc xác định các điều kiện của quyền đòi nợ. Khi quyền đòi nợ đáp ứng đủ các điều kiện để nhận làm tài sản bảo đảm thì quyền đòi nợ cũng được TCTD định giá tức là xác định giá trị của nó.
Việc định giá quyền đòi nợ là cơ sở để xác định phạm vi nghĩa vụ mà quyền đòi nợ "có khả năng" đảm bảo tức là xác định mức cho vay hợp lý, phù hợp với quy định của pháp luật. Vì theo quy định của BLDS năm 2005 thì nghĩa vụ dân sự có thể được bảo đảm một phần hoặc toàn bộ kể cả nghĩa vụ trả lãi và bồi thường thiệt hại. Nên, các TCTD phải định giá quyền đòi nợ để xác định mức cho vay bao nhiêu là đủ để chắc chắn rằng phạm vi nghĩa vụ cần được bảo đảm luôn nằm trong "khả năng bảo đảm" của quyền đòi nợ. Việc cho vay vượt quá "khả năng bảo đảm" của quyền đòi nợ là quyền của TCTD, do TCTD quyết định. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp pháp luật cũng có quy định hạn chế việc cho vay không có tài sản bảo đảm (kể cả không có bảo đảm đối với một phần hay toàn bộ nghĩa vụ trả nợ) hoặc cho vay với điều kiện ưu đãi. Ví dụ như theo quy định tại Quy chế cho vay của các TCTD đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2007 và theo Luật Các TCTD thì TCTD không được cho vay không có bảo đảm đối với một số đối tượng