Bảo Đảm Quyền Và Lợi Ích Hợp Pháp Của Người Được Thi Hành Án Từ Phía Cá Nhân, Cơ Quan, Và Các Tổ Chức Khác

2.6. Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án từ phía cá nhân, cơ quan, và các tổ chức khác

Thực tế cho thấy, trong nhiều trường hợp chấp hành viên và người được thi hành án không thể nắm hết được thông tin về tài sản đảm bảo thi hành án của người phải thi hành án. Trong trường hợp này, vai trò của các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc cung cấp thông tin là rất quan trọng, giúp Chấp hành viên có thể thu thập thông tin về tài sản của người phải thi hành án, qua đó đưa ra các quyết định kịp thời, bảo đảm quyền lợi cho người được thi hành án. Tuy nhiên, Luật THADS 2008 chưa có quy định về vấn đề cung cấp thông tin về tài khoản, thu nhập của người phải thi hành án từ các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác. Mãi đến Luật THADS năm 2014 và Nghị định số 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS 2014 thì vấn đề này mới được luật hóa với các quy định về trình tự, thủ tục và nội dung, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân về việc cung cấp thông tin về tài khoản, thu nhập của người phải thi hành án. Cụ thể, Luật THADS năm 2014 có quy định: “2. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có nghĩa vụ thực hiện nghiêm chỉnh các quyết định, yêu cầu của Chấp hành viên trong thi hành án; thông báo cho cơ quan thi hành án dân sự khi có thay đổi về địa chỉ, nơi cư trú.” Còn Nghị định số 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ đã quy định rõ trường hợp các tổ chức tín dụng không thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên về việc cung cấp thông tin về tài khoản của người phải thi hành án hoặc thực hiện không kịp thời dẫn đến việc đương sự tẩu tán tài sản, trốn tránh thi hành án; hoặc việc quy định người phải THADS có trách nhiệm ký nhận vào danh sách chi trả lương hưu hoặc tiền trợ cấp mất sức lao động hàng tháng nhưng người phải thi hành án không ký dẫn đến khó khăn trong thực hiện khấu trừ thu nhập thì trách nhiệm sẽ thuộc về phía các tổ chức tín dụng hoặc người phải thi hành án. Ngoài ra,

tại Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT-BTP-BTC-BLĐTBXH-NHNNVN ngày 14/01/2014, các cơ quan hữu quan đã có hướng dẫn về: các nguyên tắc trao đổi, cung cấp, quản lý và sử dụng thông tin; thời hạn cung cấp thông tin; quy định về các biện pháp chế tài đối với hành vi che dấu thông tin về tài khoản của người phải THADS hoặc tiết lộ thông tin để người phải THADS chuyển, rút tiền khỏi tài khoản làm ảnh hưởng đến quá trình thi hành án; quy định trách nhiệm bảo mật thông tin được cung cấp đối với bên yêu cầu cung cấp thông tin. Những quy định này đã tạo cơ sở pháp lý để thi hành hiệu quả hơn bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, qua đó giúp cho quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án được bảo đảm một cách tốt và đầy đủ nhất.

Bên cạnh các quy định của Luật THADS, của Nghị định hướng dẫn, … Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ thị số 21/2008/CT-TTg ngày 01/7/2008 chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, chỉ đạo các ngân hàng, bảo hiểm xã hội và các tổ chức tín dụng khác tăng cường công tác phối hợp thi hành án; thực hiện quyết định của cơ quan thi hành án về cưỡng chế trừ vào thu nhập, khấu trừ tài khoản, trừ vào tiền, thu hồi giấy tờ có giá của người phải thi hành án theo quy định của pháp luật THADS. Theo đó, trách nhiệm của các cơ quan được xác định như sau:

Trách nhiệm của Bảo hiểm xã hội trong thi hành án dân sự:

- Cung cấp đúng, đầy đủ, kịp thời thông tin, số liệu về các khoản thu nhập của người phải thi hành án đang được chi trả qua Bảo hiểm xã hội theo yêu cầu của Chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự.

- Thực hiện nghiêm chỉnh, kịp thời yêu cầu của Chấp hành viên về khấu trừ thu nhập của người phải thi hành án để thi hành án.

- Thực hiện đầy đủ yêu cầu khác của Chấp hành viên, cơ quan thi hành

án dân sự theo quy định của Luật thi hành án dân sự.

Trách nhiệm của Kho bạc nhà nước, ngân hàng và tổ chức tín dụng khác trong thi hành án dân sự:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 100 trang tài liệu này.

- Cung cấp đúng, đầy đủ, kịp thời thông tin, số liệu về tài khoản của người phải thi hành án theo yêu cầu của Chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự.

- Thực hiện nghiêm chỉnh, kịp thời yêu cầu của Chấp hành viên về phong tỏa tài khoản, phong toả tài sản; khấu trừ tiền trong tài khoản; giải toả việc phong toả tài khoản, phong toả tài sản của người phải thi hành án.

Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án theo pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam hiện hành - 9

Thực hiện đầy đủ yêu cầu khác của Chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự theo quy định của Luật thi hành án dân sự.

Kết luận Chương 2


Quyền lợi hợp pháp của công dân được pháp luật thừa nhận và bảo vệ - đây là một nguyên tắc hiến định. Đối với người được thi hành án dân sự thì nguyên tắc này càng trở nên cần thiết bởi họ là đối tượng có quyền lợi bị xâm phạm trong các quan hệ dân sự trước đó. Việc đảm bảo thi hành án dân sự suy cho đến cùng cũng nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của các bên đương sự, đảm bảo công bằng xã hội và tính nghiêm minh của pháp luật. Xuất phát từ bản chất đó, pháp luật về THADS của nước ta trong thời gian qua đã không ngừng được hoàn thiện, bổ sung với hàng loạt các quy định mới tạo hành lang pháp lý cho hoạt động bảo đảm quyền và lợi ích cho người được thi hành án. Đó chính là việc xây dựng các nguyên tắc trong bảo đảm quyền lợi ích của người được thi hành án; Là các quy định bảo vệ quyền lợi của người được thi hành án thông qua chế định về các biên pháp bảo đảm thi hành án, chế định về các biện pháp cưỡng chế thi hành án; Là các quy định về quyền – nghĩa vụ và trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan như: người được thi hành án, người phải thi hành án, thủ trưởng cơ quan THADS, chấp hành viên, tòa án, các tổ chức tín dụng, …..

Xem xét, phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho người được thi hành án chúng ta thấy được đặc điểm, vai trò của từng biện pháp; những điểm được và những điểm còn bất cập của từng chế định; … từ đó có cái nhìn toàn diện về các chế định pháp luật hiện hành, đề xuất những điều chỉnh nhằm hoàn thiện hơn nữa các chế định này. Điều này có ý nghĩa to lớn trong việc bảo đảm tổ chức thi hành án đúng thủ tục, trình tự, qua đó góp phần giúp bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án dân sự tốt hơn.

Chương 3

THỰC TIỄN BẢO ĐẢM QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NGƯỜI ĐƯỢC THI HÀNH ÁN VÀ CÁC KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐỂ BẢO ĐẢM QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NGƯỜI ĐƯỢC THI HÀNH ÁN


3.1. Thực tiễn bảo đảm quyền và lợi ích của người được thi hành án

3.1.1. Thực tiễn bảo đảm quyền và lợi ích của người được thi hành án thông qua việc áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án

3.1.1.1. Thực tiễn bảo đảm bằng biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ

Nền kinh tế thị trường của nước ta đang dần chuyển sang nền kinh tế toàn cầu, hiện đại. Các giao dịch thương mại đã và đang diễn ra nhanh chóng và vượt ra khỏi phạm vi lãnh thổ quốc gia. Chính vì vậy, một trong những yêu cầu cơ bản khi thi hành ánm gia các giao dịch thương mại là người thi hành ánm gia phải có phương tiện thi hành ánnh toán thuận tiện, nhanh chóng, đơn giản và hiệu quả. Do vậy, sử dụng tài khoản mở tại các Ngân hàng, tổ chức tín dụng là sự lựa chọn của hầu hết các cá nhân, tổ chức khi thi hành ánm gia các giao dịch. Nắm bắt được xu hướng này, pháp luật về THADS ngay từ những ngày đầu đã quy định biện pháp phong tỏa tài khoản như là một công cụ hữu hiệu trong hoạt động thi hành án. Thực tiễn thi hành án cho thấy, trong nhiều trường hợp mặc dù có điều kiện để lựa chọn những biện pháp bảo đảm THADS khác nhưng lựa chọn ưu tiên hàng đầu của Chấp hành viên vẫn là áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ. Với trình tự, thủ tục áp dụng đơn giản, nhanh chóng, không phải huy động lực lượng và các thủ tục xử lý về sau cũng thuận lợi đã tạo nên ưu điểm của biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ so với các biện pháp bảo đảm thi hành án khác.

Tuy nhiên, dù liên tục được sửa đổi hoàn thiện qua các thời kỳ thì việc áp dụng biện pháp này trong thực tiễn vẫn đang phát sinh một số hạn chế, bất cập sau:

- Thứ nhất, Luật THADS và các văn bản hướng dẫn thi hành mới chỉ quy định một cách chung chung về căn cứ để áp dụng biện pháp này là để "ngăn chặn việc tẩu tán tiền trong tài khoản" mà chưa có quy định cụ thể về các hành vi được cho là hành vi tẩu tán tiền trong tài khoản, thông qua đó có căn cứ phân biệt với các hành vi thực hiện giao dịch thông thường thông qua tài khoản trong quá trình sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng....của người phải thi hành án. Từ đó nảy sinh các quan điểm xử lý khác nhau giữa Chấp hành viên, đương sự và tổ chức tín dụng về các hành vi này.

- Thứ hai, hiện nay pháp luật chưa có cơ chế cụ thể để hỗ trợ cho người được thi hành án thực hiện việc xác minh thông tin về tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ của người phải thi hành án. Luật THADS đã trao quyền cho đương sự (thường là người được thi hành án) được chủ động cung cấp thông tin và yêu cầu Chấp hành viên áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ của người phải thi hành án. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy để thu thập được các thông tin về tài khoản của người phải thi hành án tại các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng thì người được thi hành án thường phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và hầu hết không đạt được kết quả do vướng phải những quy định về cơ chế bảo mật thông tin khách hàng trong hoạt động tín dụng. Việc thiếu các quy định của pháp luật tạo cơ sở pháp lý để đương sự tự mình xác minh, thu thập thông tin về tài khoản của người phải thi hành án khiến cho quyền cung cấp thông tin và quyền yêu cầu áp dụng biện pháp phong tỏa của người được thi hành án trong nhiều tình huống chỉ mang tính hình thức.

- Thứ ba, chưa có chế tài áp dụng hoặc chế tài chưa đủ sức răn đe đối với tổ chức đang nắm giữ thông tin về tài khoản, tài sản gửi giữ của người phải thi hành án khi từ chối cung cấp thông tin theo yêu cầu hợp pháp. Mặc

dù việc xác minh thông tin về tài khoản, tài sản gửi giữ của người phải thi hành án đa phần do Chấp hành viên thực hiện nhân danh quyền lực Nhà nước; Luật THADS cũng như Luật các tổ chức tín dụng đã quy định nghĩa vụ cung cấp thông tin của ngân hàng, tổ chức tín dụng, kho bạc nhà nước theo yêu cầu của Chấp hành viên. Cụ thể, Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 đã quy định một cách rõ ràng, cụ thể về việc thực hiện 65 yêu cầu cung cấp thông tin về tài khoản của khách hàng. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng đã cho thấy sự thiếu hợp tác từ phía Ngân hàng, tổ chức tín dụng trong việc cung cấp thông tin. Trong nền kinh tế thị trường, với khẩu hiệu "khách hàng là thượng đế", với mong muốn bảo đảm tối đa quyền lợi của khách hàng các tổ chức tín dụng đã cố tình quên, không thực hiện các quy định về cung cấp thông tin hoặc kéo dài thời gian cung cấp thông tin bằng cách đề nghị làm rõ khái niệm "Cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật", gây khó khăn cho Chấp hành viên trong việc xác minh, thu thập thông tin và áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ của người phải thi hành án.

- Thứ tư, một vấn đề nữa được đặt ra trong quá trình áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ chính là một số Chấp hành viên thoái hóa, biến chất đã vi phạm đạo đức nghề nghiệp khi có sự thông đồng với người phải thi hành án trong quá trình thực thi nhiệm vụ của mình. Vì mục đích vụ lợi, khi có thông tin về tài khoản của người phải thi hành án do người được thi hành án cung cấp hoặc qua việc xác minh, họ đã thông báo cho người phải thi hành án các thông tin cần thiết nhằm tạo điều kiện để người phải thi hành án kịp thời thực hiện việc tẩu tán tiền trong tài khoản trước khi bị áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự.

Từ các phân tích nêu trên cho thấy, biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ trong THADS là một quy định rất tiến bộ, có nhiều ưu điểm, nhanh gọn, ít tốn kém và đưa lại hiệu quả cao. Tuy nhiên, hệ thống các quy định của Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành về biện

pháp này vẫn còn một số hạn chế dẫn đến việc áp dụng còn lúng túng, kém hiệu quả cần được sửa đổi, bổ sung để khắc phục trong thời gian tới.

3.1.1.2. Thực tiễn bảo đảm quyền và lợi ích của người được thi hành án thông qua biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ

Trên thực tế, biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự ít được Chấp hành viên áp dụng hơn so với các biện pháp bảo đảm THADS khác do tính hiệu quả chưa cao. Do nhận thức được việc có thể bị Chấp hành viên ra quyết định tạm giữ giấy tờ, tài sản để bảo đảm việc thi hành án nên đương sự thường không trực tiếp quản lý, sử dụng tài sản của mình một cách công khai mà sử dụng triệt để thủ đoạn nhờ người khác đứng tên đăng ký tài sản của mình. Thêm vào đó, pháp luật về THADS hiện nay vẫn chưa có cơ chế để thực hiện biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ một cách triệt để, việc thực hiện biện pháp này chủ yếu phụ thuộc vào ý thức chấp hành pháp luật của đương sự trong quá trình thi hành án. Ví dụ: Chấp hành viên vận động người phải thi hành án hoặc gia đình, thân nhân của họ tự nguyện nộp sản phẩm là lúa, gạo, nông sản khi đến vụ thu hoạch hoặc nộp số tiền thu được từ việc bán các sản phẩm đó, tiền lương, tiền công lao động mà họ được trả… Qua khảo sát cho thấy việc thực hiện biện pháp này còn có một số vướng mắc, bất cập như sau:

- Thứ nhất, hiện nay pháp luật chưa quy định cụ thể về việc đăng ký tài sản, công khai tài sản nên chưa có cơ chế cung cấp thông tin công khai về tài sản, thu nhập của tổ chức, cá nhân. Do đó, trên thực tế tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án nhưng Chấp hành viên không thể xử lý tạm giữ do nhiều nguyên nhân: Tài sản, giấy tờ về danh nghĩa thuộc sở hữu của người khác; hoặc tài sản đã được mua bán, chuyển nhượng, cầm cố, thế chấp cho người khác trước đó; … Đã có không ít trường hợp, sau khi ra quyết định tạm giữ đối với các tài sản này thì Chấp hành viên đã buộc phải chấm dứt việc áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ để trả lại các tài sản đã bị

Xem tất cả 100 trang.

Ngày đăng: 17/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí