tạm giữ do các tài sản, giấy tờ đó trên giấy tờ thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người khác. Điều này đã làm giảm đáng kể hiệu quả của việc áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của người phải thi hành án.
- Thứ hai, chưa có quy định cụ thể về cơ chế phối hợp giữa Chấp hành viên với cơ quan Công an và các cơ quan khác có liên quan trong việc thực hiện biện pháp tạm giữ giấy tờ, tài sản của đương sự. Thông thường, khi người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án thì Chấp hành viên mới phải áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đuơng sự. Việc tạm giữ tài sản, giấy tờ thường vấp phải sự chống đối của người phải thi hành án.Trong khi đó, Chấp hành viên không được trang bị các kỹ năng, điều kiện cần thiết để trấn áp khi có sự chống đối, thậm chí là manh động của người phải thi hành án. Vì vậy, việc Chấp hành viên (đặc biệt đối với Chấp hành viên là phụ nữ) thực hiện áp dụng biện pháp này một mình gặp rất nhiều khó khăn, không hiệu quả. Mặt khác, về thủ tục thu giữ, khi có căn cứ cho thấy người phải thi hành án đang giấu giấy tờ, tài sản hoặc đang đeo trang sức trên người, Chấp hành viên có được khám người, phương tiện để tạm giữ hay không còn chưa được quy định cụ thể. Trong khi đó, có quan niệm cho rằng nếu thực hiện sẽ vi phạm nhân quyền.
Tóm lại, biện pháp bảo đảm THADS tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự là một quy định tiến bộ, đột phá, nhằm thực thi một cách triệt để, đúng pháp luật, có hiệu quả các bản án, quyết định; bảo đảm pháp chế XHCN, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên, một số vấn đề liên quan đến việc áp dụng biện pháp này vẫn chưa được quy định cụ thể dẫn đến thực tiễn thực hiện không tránh khỏi vướng mắc cần phải hoàn thiện hơn trong thời gian tới.
3.1.1.3. Thực tiễn bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án thông qua biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở
hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản
Thông thường tài sản phải thực hiện đăng ký quyền sở hữu là những tài sản có giá trị lớn và dễ xác minh thông tin, tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình tổ chức thi hành án. Số liệu thống kê về THADS cho thấy, thực tế có đến 85% trong tổng số các vụ việc được tổ chức thi hành có đối tượng tài sản thi hành án hoặc bị xử lý để thi hành án là bất động sản hoặc tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng theo quy định của pháp luật. Do đó, biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản được Chấp hành viên áp dụng nhiều trong thực tiễn hoạt động thi hành án dân sự và trên thực tế đã phát huy hiệu quả. Tuy nhiên, qua gần 03 năm thực hiện, việc áp dụng biện pháp này cũng bắt đầu bộc lộ một số vướng mắc, bất cập cần giải quyết triệt để, cụ thể:
- Thứ nhất, việc đăng ký các giao dịch, kê khai thu nhập, tài sản chưa thực hiện một cách nghiêm túc, triệt để dẫn tới việc quản lý, nắm bắt các thông tin về quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất và các tài sản, thu nhập khác của người phải thi hành án không thực hiện được, không có cơ sở dữ liệu cần thiết cho việc tra cứu, sử dụng khi áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự về tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản. Mặt khác, pháp luật chưa quy định chế tài cụ thể đối với các tổ chức, cá nhân không thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên trong việc cung cấp thông tin về tài sản, thu nhập của người phải thi hành án khi áp dụng biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản nên nhiều trường hợp họ đã không thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên.
- Thứ hai, quy định thời hạn áp dụng biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản như hiện nay trong một số trường hợp là quá ngắn để thực hiện. Tài liệu sơ kết sau 02 năm thi hành Luật Thi hành án dân sự của Bộ Tư pháp cũng đã chỉ rõ về việc không thể tuân thủ
đúng thời hạn khi áp dụng biện pháp này. Nguyên nhân của nó là tài sản đang bị áp dụng biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng có thể là tài sản thuộc sở hữu chung của người phải thi hành án với người khác, cho nên trước khi chuyển sang áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên Chấp hành viên phải tuân thủ quy định tại Điều 74 Luật Thi hành án dân sự. Theo đó, Chấp hành viên phải thông báo cho các chủ sở hữu chung khác trong thời gian 30 ngày để các đồng sở hữu tự phân chia hoặc khởi kiện ra Tòa án để xác định phần sở hữu, mất nhiều thời gian. Trong khi đó, thời hạn để áp dụng biện pháp này được pháp luật quy định ngắn nên không thể thực hiện được.
Như vậy, bước đầu việc áp dụng biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản đã có những kết quả nhất định. Qua đó cho thấy quy định của pháp luật về biện pháp này đã được thực tiễn kiểm nghiệm và thừa nhận là đúng đắn và cần thiết, góp phần tích cực trong việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện cho thấy quy định về biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng tài sản vẫn tồn tại một số bất cập, hạn chế về việc đăng ký, cung cấp thông tin về tình hình tài sản, thu nhập của người phải thi hành án và thời hạn áp dụng biện pháp này, cần khắc phục trong thời gian tới.
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo Đảm Quyền Và Lợi Ích Hợp Pháp Của Người Được Thi Hành Án Thông Qua Các Thủ Tục Thi Hành Án Dân Sự
- Bảo Đảm Quyền Và Lợi Ích Hợp Pháp Của Người Được Thi Hành Án Từ Phía Chấp Hành Viên Trong Quá Trình Thi Hành Án Dân Sự
- Bảo Đảm Quyền Và Lợi Ích Hợp Pháp Của Người Được Thi Hành Án Từ Phía Cá Nhân, Cơ Quan, Và Các Tổ Chức Khác
- Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án theo pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam hiện hành - 11
- Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án theo pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam hiện hành - 12
Xem toàn bộ 100 trang tài liệu này.
3.1.2. Thực tiễn bảo đảm quyền lợi ích của người được thi hành án thông qua áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự
Việc thi hành dứt điểm các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật mà được thi hành ngay có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, giúp củng cố niềm tin của nhân dân đối với pháp luật và chủ trương, chính sách của Nhà nước. Tuy nhiên, đa số các trường hợp người phải thi hành án thường không tự nguyện
thi hành nghĩa vụ của mình. Để bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định, trong những năm qua, cơ quan THADS đã thường xuyên phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án đối với người phải thi hành án. Bên cạnh những ưu điểm, kết quả đáng khích lệ mà biện pháp cưỡng chế THADS mang lại vẫn còn không ít khó khăn gặp phải cần được tháo gỡ:
3.1.2.1. Khó khăn đến từ các tổ chức tín dụng
Mặc dù pháp luật đã quy định rõ trách nhiệm phối hợp, cung cấp thông tin của các tổ chức tín dụng trong quá trình Chấp hành viên tiến hành thu thập thông tin về tài khoản của người phải thi hành án. Tuy nhiên, do vướng phải các quy định về bảo mật thông tin khách hàng của các tổ chức tín dụng, do không nắm vững quy định của pháp luật từ nhân viên ngân hàng, và những nguyên nhân khác mà các tổ chức tín dụng từ chối cung cấp thông tin về tài khoản của người phải thi hành án. Không chỉ không hợp tác trong việc cung cấp thông tin, các tổ chức tín dụng còn thiếu thiện chí hợp tác trong quá trình tổ chức thi hành án, họ có thể viện ra các lý do như: số tiền phải thi hành án lớn, phải xin ý kiến của hội sở; hoặc viện lý do bảo đảm khách hàng; … để trì hoãn việc thi hành án khiến vụ việc kéo dài dẫn đến người được thi hành án bức xúc, khiếu nại cơ quan thi hành nhiều lần.
Ví dụ: Chi cục THADS Thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên thụ lý thi hành bản án số 07/DSST ngày 05/04/2014 của Tòa án nhân dân Thành phố Tuy Hòa với nội dung: Công ty TNHH TX phải trả cho ông Nguyễn Văn T số tiền 1.200.000.000 đồng. Ông T cung cấp cho Chi cục THADS thông tin Công ty TNHH TX có số tiền 1.000.000.000 đồng trong tài khoản mở tại Ngân hàng TMCP N. Khi Chi cục THADS Thành phố Tuy Hòa xác minh thông tin đó là có cơ sở và yêu cầu ngân hàng N chuyển tiền qua tài khoản của Chi cục thi hành án để thi hành án. Viện lý do số tiền lớn, phòng giao dịch ngân hàng N phải xin ý kiến hội sở. Sau vài ngày trì hoãn, Công ty TNHH TX đã chuyển
toàn bộ số tiền trong tài khoản để trả nợ cho công ty khác. Khi Chi cục thi hành án thành phố Tuy Hòa làm việc lại với ngân hàng, thì trong tài khoản của Công ty TNHH TX chỉ còn 150.000 đồng, không đủ điều kiện để tổ chức cưỡng chế thi hành án.
Pháp luật đã có quy định chế tài đối với trường hợp các tổ chức tín dụng không thực hiện quyết định cưỡng chế THADS khấu trừ tiền trong tài khoản của cơ quan thi hành án, theo đó nếu ngân hàng không chuy ển tiền trong tài khoản của người bi ̣thi hành án cho cơ quan THADS thì đơn vi ̣sẽ lập
biên bản vi phạm hành chính để x ử phạt. Tuy nhiên, do chế tài chưa đủ sức
răn đe nên trong thực tế, các tổ chức tín dụng thường không thực hiện ngay yêu cầu khấu trừ tiền trong tài khoản mà cố kéo dài thời gian chờ sau khi cơ quan THADS ra quyết định xử phạt hành chính thì mới chịu khấu trừ. Một số tiền lớn nằm trong tài khoản sẽ sinh ra khoản lợi nhuận lớn cho ngân hàng, do đó việc cố tình vi phạm các quy định của pháp luật là điều dễ hiểu.
3.1.2.2. Khó khăn trong việc áp dụng biện pháp trừ vào thu nhập của người phải thi hành án
Một nội dung quan trọng trong biện pháp cưỡng chế THADS “Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án” là xác minh thông tin về thu nhập. Các tổ chức, cá nhân thường có nhiều nguồn thu nhập khác nhau, trong đấy có những nguồn thu nhập không được kê khai do đa phần đương sự cố tình che giấu, đặc biệt là thu nhập từ hoạt động kinh doanh. Đa phần, người phải thi hành án từ chối cung cấp thông tin cho người được thi hành án, Chấp hành viên hoặc cố tình cung cấp sai thông tin khi được yêu cầu nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ. Mặt khác, theo quy định của pháp luật, thông tin về tài sản, thu nhập của tổ chức, cá nhân là những thông tin bí mật và được pháp luật bảo đảm. Do đó, Chấp hành viên muốn xác minh phải thông qua cơ quan có thẩm quyền, trường hợp người được thi hành án trực tiếp đi xác minh
thông tin thì càng khó khăn hơn. Rõ ràng, hiệu quả của biện pháp này phụ thuộc rất nhiều vào ý thức chấp hành pháp luật của người phải thi hành án và nhận thức, trách nhiệm của cơ quan liên quan. Tuy nhiên hiện nay các cơ quan như UBND, bảo hiểm xã hội và người sử dụng lao động,… chưa có sự phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự. Cơ quan BHXH không thực hiện việc chuyển tiền lương hưu, trợ cấp của người phải thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự theo quyết định cưỡng chế của Chấp hành viên. Người sử dụng lao động kiên quyết từ chối cơ quan thi hành án vì lý do bảo đảm cho người lao động của mình, hoặc đơn giản chỉ vì chưa có tiền lệ.
Ví dụ: Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình thụ lý thi hành bản án số 15/DS-ST ngày 15/03/2011 của TAND Đông Hưng. Nội dung thi hành ông Nguyễn Văn Đ phải trả cho bà Trần Thị H số tiền
10.000.000 đồng. Chi cục THADS xác minh được ông Đ không có tài sản gì ngoài số tiền lương hưu hàng tháng là 2.750.000 đồng. Sau khi đã quyết định áp dụng biện pháp cũng chế thi hành án trừ vào thu nhập và BHXH huyện Đông Hưng có trách nhiệm chuyển tiền vào tài khoản của Chi cục để thi hành. Nhưng cơ quan BHXH từ chối phối hợp vì cho rằng đây là lương hưu.
Từ những vấn đề nêu trên, dẫn đến không ít hồ sơ thi hành án tồn đọng, không thi hành được mặc dù người phải thi hành án có tiền lương hưu, tiền trợ cấp hàng tháng tại BHXH. Dẫn đến người dân mất lòng tin vào cơ quan THADS, cho rằng cơ quan THADS chưa làm hết trách nhiệm trong việc thi hành án, gây nhiều bức xúc trong xã hội.
3.1.2.3. Khó khăn khi kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án
Kê biên tài sản của người phải thi hành án đã chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho người thứ ba:
Vấn đề kê biên tài sản của người phải thi hành án đã chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho người thứ ba không phải là một vấn đề mới, nó đã
được pháp luật THADS dự liệu và quy định từ trước đây trong các văn bản như: Thông tư liên tịch số 12/2001/TTLT-BTP-VKSNDTC, Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTPTANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 và gần đây nhất là Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự. Các văn bản này đều có quy định:
Kể từ thời điểm bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, nếu người phải thi hành án chuyển đổi, tặng cho, bán, chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố tài sản cho người khác mà không sử dụng khoản tiền thu được để thi hành án và không còn tài sản khác hoặc tài sản khác không đủ để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án thì tài sản đó vẫn bị kê biên, xử lý để thi hành án, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Khi kê biên tài sản, nếu có người khác tranh chấp thì Chấp hành viên thông báo cho đương sự, người có tranh chấp thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự.
Theo đó, nếu sau khi có bản án, quyết định sơ thẩm, người phải thi hành án có hàng vi chuyển nhượng, tặng cho tài sản là nhà, đất của mình cho bên thứ ba (việc chuyển nhượng, tặng cho này được lập thành hợp đồng, có công chứng và đã kê khai đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền. Theo quy của BLDS 2005 và Luật nhà ở 2014 thì đây là một giao dịch hợp pháp, tài sản bây giờ đã không thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành án) thì Chấp hành viên vẫn được quyền kê biên tài sản này để đảm bảo thi hành án. Tuy nhiên, việc xử lý các tài sản của người phải thi hành án đã chuyển nhượng, tặng cho bên thứ ba sau khi kê biên lại gặp phải nhiều khó khăn, vướng mắc. Theo quy định của Luật THADS sửa đổi 2014, sau khi tài sản bị kê biên được bán đấu giá thành, cơ quan THADS có trách nhiệm cung cấp đầy đủ các văn bản, giấy tờ liên quan cho người trúng đấu giá. Nhưng lúc này các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản đang trong tay của bên thứ ba (người nhận chuyển
nhượng, người được tặng cho) nên Chấp hành viên khó có thể thu hồi để giao cho người trúng đấu giá.
Kê biên tài sản chung:
Việc kê biên đối với các tài sản chung đã được Luật THADS sửa đổi quy định. Theo đó Chấp hành viên phải thông báo cho người phải thi hành án và những người có quyền sở hữu chung đối với tài sản, quyền sử dụng đất biết để họ tự thỏa thuận phân chia tài sản chung hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Trường hợp hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, các bên không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận không được và không yêu cầu Tòa án giải quyết thì người được thi hành án hoặc Chấp hành viên có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự. Tuy nhiên, điểm vướng mắc ở đây là sự thiếu đồng bộ trong các quy định pháp luật. Luật THADS trao cho người được thi hành án và Chấp hành viên quyền yêu cầu tòa án phân chia tài sản chung, nhưng theo quy định Luật Tố tụng dân sự thì họ lại không phải là chủ thể của mối quan hệ này. Do đó, khi họ gửi yêu cầu thì Tòa án không thụ lý giải quyết vì không đúng chủ thể khởi kiện. Mà Tòa án không thụ lý việc phân chia tài sản chung thì việc thi hành án không thể tiến hành được.
Trường hợp khác, mặc dù Pháp luật THADS hiện hành cho phép Chấp hành viên kê biên tài sản là quyền sử dụng đất để thi hành nghĩa vụ trả tiền theo bản án của Tòa án, quyết định nhưng thực tiễn áp dụng lại gặp phải không ít vướng mắc. Nếu giá trị của quyền sử dụng đất tương ứng hoặc nhỏ hơn nghĩa vụ thi hành án thì việc kê biên tương đối dễ dàng. Vấn đề đặt ra ở đây là nếu quyền sử dụng đất có giá trị lớn hơn nghĩa vụ phải thi hành án thì Chấp hành viên chỉ tiến hành kê biên một phần diện tích đất trong tổng số diện tích đất. Việc xác định phần diện tích đất sẽ bị kê biên khá phức tạp.