Khi Xét Hỏi Từng Người, Chủ Tọa Phiên Tòa Hỏi Trước Sau Đó Quyết Định Để Thẩm Phán, Ksv, Nbc, Người Bảo Vệ Quyền Và Lợi Ích Hợp Pháp Của Đương

án khó có thể bình đẳng và độc lập. Vì vậy, theo tác giả cần loại bỏ chức năng giám sát việc tuân theo pháp luật của VKS để phù hợp với các nguyên tắc tranh tụng, từ đó phân định rò chức năng của các chủ thể khi tham gia tố tụng trong vụ án hình sự và đảm bảo được sự bình đẳng giữa chức năng buộc tội và chức năng gỡ tội. Về địa vị pháp lý và cũng là tạo sự độc lập trong quá trình xét xử của Tòa án và tạo điều kiện cho VKS hoàn thành tốt hơn chức năng công tố của mình [14].

- Nghiên cứu về điều luật “Sự có mặt của Điều tra viên và những người khác” tác giả nhận thấy:

Điều 296. Sự có mặt của Điều tra viên và những người khác

Trong quá trình xét xử, khi xét thấy cần thiết, HĐXX có thể triệu tập ĐTV, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thụ lý, giải quyết vụ án và những người khác đến phiên tòa để trình bày các vấn đề liên quan đến vụ án.”

Với quy định “Khi xét thấy cần thiết”. Quy định như vậy là không cụ thể, mang tính tùy nghi, có cũng được, không có cũng không sao, nên rất cần có văn bản hướng dẫn những trường hợp nào là “Xét thấy cần thiết” dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất về mặt nhận thức, rất dễ xảy ra trường hợp áp dụng điều luật theo ý chủ quan của Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa.

Quy định yêu cầu “Điều tra viên” có thể hiểu là ĐTV trực tiếp điều tra vụ án hay ĐTV thuộc cơ quan điều tra đó, và đối với những trường hợp ĐTV chuyển vị trí công tác đi cơ quan khác thì hướng xử lý thế nào? Điều luật trên đều quy định “Hội đồng xét xử…” với những quy định như vậy có thể hiểu là chỉ quy định HĐXX mới có thẩm quyền triệu tập. Trên thực tế, một số VAHS cho thấy có một số nội dung cần thiết phải triệu tập ĐTV đến phiên tòa để làm rò thì tư cách của họ tham gia tố tụng như thế nào, có phải là người làm chứng, hay người chứng kiến không, quyền và nghĩa vụ pháp lý tại phiên tòa

hình sự của ĐTV, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thụ lý, giải quyết vụ án và những người khác được HĐXX triệu tập đến phiên tòa để trình bầy về các vấn đề liên quan đến vụ án thì họ có mặt tại phiên tòa với tư cách gì?.

- Nghiên cứu về điều luật “Giới hạn của việc xét xử” tác giả nhận thấy:

Điều 298. Giới hạn của việc xét xử

3. Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh VKS truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để VKS truy tố lại và thông báo rò lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, NBC biết; nếu VKS vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó”.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 92 trang tài liệu này.

Trong trường hợp Tòa án xét xử tội danh nặng hơn tội danh VKS truy tố, ví dụ như VKS truy tố bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích”; khi nghiên cứu hồ sơ Tòa án nhận thấy cần phải xét xử bị cáo về tội danh “Giết người” mới đúng nên đã trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung, nhưng sau đó VKS vẫn giữ nguyên quan điểm của mình là truy tố bị cáo phạm tội “Cố ý gây thương tích ”và không thay đổi cáo trạng. Luật sư bào chữa cho bị cáo cũng đồng ý với tội danh của VKS cáo buộc. Vậy, vấn đề này HĐXX sẽ giải quyết như thế nào khi cả bên buộc tội và gỡ tội đều không tranh tụng về tội danh mà HĐXX thấy cần áp dụng với bị cáo? Khi Tòa án thấy cần xử bị cáo tội danh nặng hơn tội danh mà VKS đã truy tố nhưng VKS không đồng ý thay đổi tội danh đó, nếu tội danh đó vẫn thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cùng cấp? và nếu tội danh nặng hơn đó không thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án đó mà thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp trên thì HĐXX giải quyết như thế nào?

Nghiên cứu về trình tự xét hỏi quy định trong BLTTHS năm 2015 thấy:

Bảo đảm quyền tranh tụng tại phiên tòa hình sự phúc thẩm từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh - 9

- Điều 307. Trình tự xét hỏi

1. Chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý.

2. Khi xét hỏi từng người, Chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau đó quyết định để Thẩm phán, KSV, NBC, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi [11].

Trong quy định này, các chủ thể tham gia tranh tụng, thực hiện quyền tranh tụng không thực sự nhận thức đúng và đầy đủ về vai trò của mình nên không thực sự tích cực và chủ động trong việc thực hiện chức năng của mình, Tòa án vẫn còn phải hỏi nhiều vì vậy KSV ỷ lại và phụ thuộc vào Tòa án, luật sư chỉ hỏi những vấn đề chưa được hỏi. Do đó, cần phải thực hiện đúng các chức năng, nhiệm vụ của bên buộc tội cho nên tại phiên tòa hình sự, KSV chỉ thực hiện việc xét hỏi để bảo vệ sự buộc tội của mình, luật sư và bị cáo thực hiện quyền tranh tụng của mình, thực hiện chức năng gỡ tội, còn Tòa án chỉ xét xử và ra phán quyết trên cơ sở các bên buộc tội và gỡ tội tranh luận đề đánh giá một cách khách quan nhất giới hạn của sự buộc tội đó.

Trong VAHS, trước hết phải có sự buộc tội, sau đó là sự gỡ tội và cuối cùng là phán xét của Tòa án trên cơ sở tranh tụng giữa bên buộc tội và gỡ tội đó. Theo đó, việc xét hỏi, tranh luận phải theo một trình tự tố tụng chặt chẽ. Theo tác giả, trình tự xét hỏi hợp lý nhất là KSV xét hỏi trước, tiếp theo là NBC, còn Tòa án (HĐXX) chỉ xét hỏi sau cùng về các tình tiết cần làm, sáng tỏ mà thôi. Như vậy, BLTTHS cần được tiếp tục sửa đổi theo hướng “ Khi xét hỏi từng người, KSV là người hỏi trước, sau đó đến NBC, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người tham gia tố tụng có quyền, lợi ích liên quan có quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa được hỏi, các thành viên HĐXX chỉ hỏi thêm về những tình tiết mà mình cho rằng chưa rò ràng, chưa được xét hỏi đầy đủ hoặc có mâu thuẫn”.

- Nghiên cứu về điều khoản “Thu thập chứng cứ” quy định trong BLTTHS năm 2015, tác giả nhận thấy:

Điều 88. Thu thập chứng cứ

2. Để thu thập chứng cứ, NBC có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa.

Quyền thu thập, đưa ra chứng cứ, theo quy định tại điều khoản trên thì Luật sư có quyền độc lập thu thập chứng cứ, có quyền yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền hỗ trợ khi gặp khó khăn, trở ngại trong quá trình thu thập chứng cứ, đồng thời người có thẩm quyền trong phạm vi quyền hạn của mình phải kiểm tra, đánh giá đầy đủ, khách quan, toàn diện mọi chứng cứ đã thu thập được về vụ án cũng như khi nhận được yêu cầu kiểm tra, đánh giá chứng cứ của NBC trước khi sử dụng chứng cứ này để làm căn cứ xác định có hay không có hành vi phạm tội.

Tuy nhiên, thực tế không dễ gì khi NBC tự mình thu thập chứng cứ vì quan điểm “Quyền” giữa các cơ quan, người có thẩm quyền và luật sư có khác nhau. Quy định về trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ chính là độ chênh về “Quyền” giữa chủ thể có thẩm quyền và giá trị chứng cứ khi không được thu thập theo trình tự, thủ tục được quy định tại điểm 2 Điều 87 BLTTHS năm 2015 thì “Những gì có thật nhưng không được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì không có giá trị và không được dùng làm căn cứ để giải quyết VAHS”. Như vậy những quy định trong hai điều luật này có độ chênh nhau rất lớn, xét về tính tồn tại xã hội của chứng cứ và của hệ thống chứng cứ trong giải quyết VAHS trên thực tế cho thấy, bao giờ hệ thống “Chứng cứ buộc tội” do cơ quan điều tra, VKS, Tòa án thu thập và sử dụng cũng có lợi thế vượt trội hơn so với hệ thống “Chứng cứ gỡ tội” do NBC, Luật sư thu thập và sử dụng [19].

3.2. Nâng cao trình độ chuyên môn của Thẩm phán, Kiểm sát viên, Người bào chữa để bảo đảm quyền tranh tụng

3.2.1. Nâng cao trình độ chuyên môn của Thẩm phán

Đảm bảo quyền tranh tụng là bảo đảm các quyền của người tham gia tố tụng được bảo đảm thực hiện đầy đủ. Trước tiên cần có sự tôn trọng của Thẩm phán người trực tiếp xét xử VAHS. Người làm Thẩm phán cũng cần phải rèn luyện và nâng cao trình độ chuyên môn, am hiểu về pháp luật, giỏi

về kỹ năng, có phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, bản lĩnh, dũng cảm, dám đấu tranh bảo vệ lẽ phải, có ý thức trách nhiệm cao trong công việc thì họ mới có niềm tin nội tâm vững vàng đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Thực tế đã chứng minh vai trò của Thẩm phán là rất quan trọng, nếu Thẩm phán bị hạn chế về chuyên môn và nghiệp vụ xét xử thì ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng xét xử, từ đó rất dễ xảy ra kết án oan sai. Để hạn chế tới mức thấp nhất oan, sai trong hoạt động tố tụng thì Thẩm phán phải làm việc công tâm, trách nhiệm, tránh tình trạng chủ quan duy ý chí. Để thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao và đáp ứng các yêu cầu của xã hội thì Thẩm phán phải thường xuyên tu dưỡng, học hỏi, nghiên cứu để nâng cao trình độ chuyên môn về nghiệp vụ và kiến thức pháp luật, kiến thức xã hội của mình. Trong phiên tòa HSPT trên cơ sở của việc kháng cáo/kháng nghị, Thẩm phán là người được trực tiếp nghe các bên tranh luận, phản biện. Từ sự tranh luận, phản biện này Thẩm phán sẽ đánh giá một cách thấu đáo, hợp tình, hợp lý và cuối cùng Thẩm phán là người đại diện cho Tòa án và nhân danh Nước cộng hòa XHCN Việt Nam phán xét bị cáo có tội hay không có tội, chấp nhận việc kháng cáo/kháng nghị hay không chấp nhận việc kháng cáo/kháng nghị. Thẩm phán như người “Cầm cân nảy mực” và Tòa án là nơi thể hiện đầy đủ nền công lý, thể hiện chất lượng và uy tín của toàn bộ hệ thống tư pháp. Chính vì vai trò quan trọng này của đội ngũ Thẩm phán nhằm nâng cao chất lượng xét xử, trách nhiệm nghề nghiệp, cũng như đạo đức và năng lực của Thẩm phán, Chánh án TANDTC đã kịp thời ban hành Chỉ thị số 01/2017/CT

- CA ngày 16/01/2017 của Chánh án TANDTC “Về việc triển khai tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2017 của các TAND” và hướng dẫn số 136/HD-TANDTC ngày 30/3/2017 về “Công tác tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm theo yêu cầu cải cách tư pháp”; Nghị quyết số 03/HĐTP ngày 16/3/2017 “Về việc công bố bản án, quyết định của Tòa án trên cổng thông tin điện tử của Tòa án”; Quyết định số 120/QĐ - TANDTC ngày

19/6/2017 về “Ban hành quy định xử lý trách nhiệm người giữ chức danh tư pháp trong TAND” đây là một giải pháp khá mạnh mẽ để nâng cao năng lực chuyên môn đối với Thẩm phán và cũng là một quyết định đầu tiên được ban hành trong hệ thống TAND nhằm nâng cao trách nhiệm của Thẩm phán khi thi hành nhiệm vụ được giao. Ngoài ra, để nâng cao chất lượng xét xử Luật Tổ chức TAND năm 2014 cũng quy định nhiệm kỳ đầu của Thẩm phán là 05 năm, nếu tái nhiệm lại nhiệm kỳ tiếp theo là 10 năm. Cùng với đó, việc tuyển chọn Thẩm phán theo hướng thi tuyển cấp quốc gia cũng là một đổi mới toàn diện mang tính cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng cho tất cả các ứng viên. Đây cũng là một cơ sở pháp lý để xây dựng đội ngũ Thẩm phán đủ về số lượng đạt về chất lượng đáp ứng nhiệm vụ được giao.

3.2.2. Nâng cao trình độ chuyên môn của Kiểm sát viên

Trước khi được phân công tham gia phiên tòa HSPT, KSV được phân công thực hành quyền công tố trước Tòa KSV phải nghiên cứu kỹ lưỡng toàn bộ hồ sơ vụ án, nội dung vụ án, các chứng cứ buộc tội, các chứng cứ gỡ tội, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS (nếu có). KSV còn dự kiến các câu hỏi cần hỏi bị cáo, cần tranh luận với bên gỡ tội, và các chủ thể khác tham gia tố tụng, xây dựng kế hoạch tranh luận để làm rò hành vi phạm tội của bị cáo. Tại phiên tòa, KSV phải chủ động xét hỏi, chủ động tranh luận, phải đưa ra những chứng cứ, tài liệu và lập luận của mình để tranh luận đối đáp với bị cáo, với NBC và những người tham gia tố tụng khác.

KSV cũng cần phải nhận thức đúng đắn và đầy đủ về nguyên tắc tranh tụng và bảo đảm các quyền tranh tụng của những người tham gia tố tụng để họ thực hiện đầy đủ quyền của mình. Có thể nói rằng trong phiên tòa XXPT các VAHS, KSV là chủ thể chính của tranh tụng, tranh tụng vừa là quyền, vừa là trách nhiệm của KSV. Việc KSV tranh tụng nhằm mục đích bảo vệ tính đúng đắn, tính khách quan, tính hợp pháp và tính có căn cứ của quan điểm truy tố, hay nói cách khác việc KSV tranh tụng chính là bảo vệ bản cáo trạng

truy tố của mình. Để KSV tranh tụng tốt, có chất lượng và tính có căn cứ ấy thì KSV phải tự trang bị kiến thức chuyên môn cho mình, phải ham học hỏi, tự tổng hợp và trang bị cho mình những kỹ năng tranh tụng, kỹ năng hỏi, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng phân tích, kỹ năng lập luận, kỹ năng phản biện, kỹ năng bác bỏ quan điểm của NBC và kỹ năng sử dụng ngôn ngữ trong tranh luận. Ngoài việc tự phải học hỏi, tự tu dưỡng, tự trau dồi các kỹ năng thì KSV còn phải thường xuyên nghiên cứu, cập nhật và nắm giữ các quy định của pháp luật TTHS, các quy định trong BLHS và những văn bản hướng dẫn thi hành BLHS và BLTTHS. Trong VAHS những tình tiết, những chứng cứ, chứng minh và lập luận của KSV phải thực sự sắc bén. Bên cạnh đó, KSV còn phải nắm vững những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, KSV phải có kiến thức về những vấn đề xã hội, kinh tế, tâm lý học tội phạm…để thực sự chủ động và sẵn sàng tranh tụng tại phiên tòa.

Khi tranh luận KSV phải tập trung vào vấn đề cần tranh luận và cần làm sáng tỏ, không miên man, không dài dòng, không dùng những lời lẽ không hay để xúc phạm danh dự những người đối tụng với mình. Ngoài ra, KSV cũng phải tự rèn luyện cho mình những kỹ năng quan sát, tổng hợp, ghi chép nhanh. Khi hùng biện tại phiên tòa KSV phải rất tự tin, chững chạc, trình bày mạch lạc, lưu loát, thái độ bình tĩnh, đúng mực và tôn trọng người đối đáp với mình, không nổi nóng, không bảo thủ luôn giữ vị trí an toàn là “Giữ nguyên quan điểm truy tố ” và không tranh luận…

Mỗi năm, ngành Kiểm sát đã tổ chức hàng ngàn phiên tòa rút kinh nghiệm, trong đó có nhiều phiên tòa được tổ chức trực tuyến, quy mô lớn trên phạm vi cả nước. Thông qua các phiên tòa rút kinh nghiệm này, KSV toàn ngành có điều kiện học hỏi những kinh nghiệm lẫn nhau, người đi sau học kinh nghiệm của người đi trước. Thực hiện tốt các giải pháp nâng cao năng lực chuyên môn, trình độ cho KSV nêu trên nên có một ý nghĩa hết sức quan

trọng là để nâng cao chất lượng tranh tụng, đảm bảo được quyền tranh tụng của tất cả những người tham gia tố tụng tại phiên tòa hình sự. Từ đó góp phần thực hiện thành công nhiệm vụ cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 49- NQ/TW của Bộ chính trị đề ra.

3.2.3. Nâng cao trình độ chuyên môn của người bào chữa

Theo Nghị quyết 49/NQ -TW của Bộ chính trị về cải cách tư pháp đã đề ra Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 là “Đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trí, có đạo đức, có trình độ chuyên môn. Hoàn thành cơ chế bảo đảm để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa …”. Dưới góc độ pháp lý, thực hiện tốt “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”đã được thể chế hóa từ nguyên tắc hiến định trong Hiến pháp 2013 [8] và quy định trong BLTTHS năm 2015.

Để nâng cao trình độ chuyên môn của NBC chủ yếu là đội ngũ Luật sư cũng phải tự mình nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn của mình để đáp ứng các yêu cầu về pháp lý của toàn xã hội. Bên cạnh đó, các tổ chức hành nghề, các tổ chức xã hội nghề nghiệp của Luật sư đã được thành lập, ở hầu hết các tỉnh thành trên cả nước. Đội ngũ Luật sư được bồi dưỡng về nghiệp vụ và đào tạo bài bản, trong thời gian vừa qua đã phát triển nhanh về số lượng và chất lượng, trình độ năng lực được nâng lên, cơ chế trách nhiệm của Luật sư và việc phát huy vai trò tự quản của các Đoàn Luật sư trong cả nước từng bước được hoàn thiện. Các vụ việc được Luật sư tư vấn, tham gia bào chữa và trợ giúp pháp lý ngày càng tăng cao, rất nhiều Luật sư đã tích cực tranh tụng, tạo không khí dân chủ trong phiên tòa. Công tác quản lý Nhà nước về Luật sư ngày càng được quan tâm thực hiện, ngày càng xuất hiện nhiều Luật sư có bản nghề nghiệp vững vàng, có phẩm chất đạo đức trong sáng, làm việc tận tụy, trách nhiệm được xã hội ghi nhận. Bên cạnh đó, thẩm quyền của Luật sư được mở rộng, các cơ quan tư pháp cũng đã cộng tác tốt để Luật sư thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao theo quy định của pháp luật, góp phần đảm

Xem tất cả 92 trang.

Ngày đăng: 24/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí