Khái Niệm Về Thực Hành Quyền Công Tố Và Bảo Đảm Quyền Con Người Trong Hoạt Động Thực Hành Quyền Công Tố Của Viện Kiểm Sát

Pháp luật là công cụ hữu hiệu của nhà nước trong việc thực hiện, bảo vệ quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Những nhu cầu vốn có, tự nhiên của con người không thể được đảm bảo đầy đủ nếu không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Thông qua pháp luật, nghĩa vụ tôn trọng và thực thi các quyền trở thành những quy tắc cư xử chung, có hiệu lực bắt buộc và thống nhất cho tất cả mọi chủ thể trong xã hội, chứ không phải chỉ tồn tại dưới dạng những quy tắc đạo đức. Vai trò của pháp luật đối với việc thúc đẩy các quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thể hiện rò ở hai khía cạnh là thừa nhận và bảo đảm các quyền cho nhóm người trên. Trước hết, pháp luật là phương tiện chính thức hóa, pháp lý hóa giá trị xã hội của các quyền tự nhiên. Ngay cả khi được thừa nhận, các quyền tự nhiên của người bị tạm giữ, bị can, bị can, bị cáo cũng không được mặc định áp dụng ở nhiều xã hội. Mà chỉ khi được pháp luật thừa nhận và bảo vệ thì những quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mới mang đầy đủ giá trị hiện thực. Pháp luật có sứ mệnh cao cả là biến những nghĩa vụ đạo đức về tôn trọng và thực hiện các quyền tự nhiên thành các nghĩa vụ pháp lý. Khía cạnh thứ hai thể hiện vai trò của pháp luật, đó là phương tiện bảo đảm các giá trị thực tế của các quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Khi được quy định trong pháp luật, việc tuân thủ và thực hiện các quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mới mang tính cưỡng chế, bắt buộc với mọi chủ thể trong xã hội. Lúc này, pháp luật là công cụ giúp nhà nước bảo đảm sự tuân thủ, thực thi các quyền của người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo của các chủ thể khác nhau trong xã hội. Hơn nữa, đó cũng là công cụ để các cá nhân bảo vệ các quyền của mình thông qua việc vận dụng các quy phạm pháp lý. Sự bảo vệ đối với nhóm người tạm giữ, bị can, bị cáo không chỉ được quy định trong luật pháp quốc tế mà trong pháp luật của tất cả các quốc gia, tuy với những mức độ khác nhau, cách thức khác nhau.

1.3. Khái niệm về thực hành quyền công tố và bảo đảm quyền con người trong hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát

1.3.1. Khái niệm về thực hành quyền công tố

Ở Việt Nam, căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành, VKS là cơ quan duy nhất được giao THQCT. Không cơ quan nào có thể thay VKS THQCT, bởi lẽ: a. VKS là cơ quan duy nhất về mặt pháp lý có quyền độc lập phát động quyền công tố. Các quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can của CQĐT chỉ thực sự có ý nghĩa phát động quyền công tố sau khi sau khi được VKS xem xét. Nếu quyết định khởi tố vụ án của CQĐT không có căn cứ, trái pháp luật thì VKS có quyền hủy bỏ. Nếu quyết định không khởi tố vụ án của CQĐT không có căn cứ VKS cũng có quyền hủy bỏ quyết định đó và ra quyết định khởi tố vụ án. Tòa án (Hội đồng xét xử) cũng có quyền khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử phát hiện có tội phạm bị bỏ lọt, tuy nhiên nếu quyết định của Hội đồng xét xử không có căn cứ thì VKS vẫn có quyền kháng nghị lên Tòa án cấp trên. b.VKS có quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, CQĐT chỉ có quyền đề nghị. c. Trong quá trình điều tra vụ án hình sự, VKS có trách nhiệm đảm bảo đủ các chứng cứ để truy tố bị can. CQĐT có quyền thu thập chứng cứ, nhưng VKS chịu trách nhiệm về việc chứng cứ đó có đủ để truy tố bị can một cách có căn cứ. Trường hợp không đủ căn cứ để buộc tội, VKS có quyền yêu cầu CQĐT điều tra bổ sung tài liệu hoặc đình chỉ vụ án, yêu cầu CQĐT khắc phục và xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra, kiến nghị với các cơ quan, tổ chức liên quan xử lý hành vi vi phạm pháp luật. d. Khi có đủ chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội và xét cần thiết phải xử lý người phạm tội trước pháp luật VKS quyết định truy tố bị can ra Tòa. Tại phiên tòa, VKS có trách nhiệm bảo đảm việc truy tố, buộc tội bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật. Bản án kết tội của Tòa án chính là việc chấp nhận lời buộc tội của VKS đối với người phạm tội.

Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm THQCT trong TTHS như sau: “Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử” [50, tr.57].

Nội dung này được thể hiện khá cụ thể tại các Điều 14, 16,18 Luật tổ chức VKSND năm 2014; Điều 112 BLTTHS năm 2003.

1.3.2. Vai trò của thực hành hành quyền công tố trong việc bảo đảm quyền con người

VKSND là cơ quan THTT hình sự, thực hiện chức năng THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS, có vị trí và vai trò quan trọng trong việc bảo vệ pháp luật, pháp chế, bảo vệ quyền con người. Việc bảo vệ QCN của VKSN trong TTHS được thể hiện trên cả hai phương diện:

Một là, đấu tranh phòng chống tội phạm, phát hiện kịp thời để đưa ra xử lý nghiêm minh trước pháp luật đối với người phạm tội xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp trong đó có các quyền của con người.

Hai là, bảo đảm các QCN (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) không bị pháp luật tước bỏ được tôn trọng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.

VKSND thực hiện nhiệm vụ bảo vệ pháp luật thông qua các hoạt động THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp. Thực chất chức năng THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND là bảo vệ pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo đảm cho mọi tội phạm và vi phạm pháp luật đều được phát hiện, xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, bảo đảm việc giải quyết các vụ án đúng pháp luật, nghiêm minh, đồng thời bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Trên cơ sở cụ thể hóa chức năng thành các nhiệm vụ. Khoản 3 Điều 107 Hiến pháp năm 2013 đã quy định:

Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất [45, Điều 107, Khoản 3].

Bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân Trên cơ sở số liệu tại địa bàn tỉnh Hà Giang - 5

Bên cạnh đó, nhiệm vụ bảo vệ QCN, quyền công dân được đặt ra là hết sức cần thiết. Hiến pháp năm 2013 đã có những quy định mới về QCN, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, đặc biệt trong lĩnh vực tư pháp Hiến pháp đã có những điều chỉnh quan trọng nhằm bảo đảm một cách tối đa QCN, quyền công dân trong lĩnh vực này, cụ thể như:

- Tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Hiến pháp năm 2013 quy định rò mọi biện pháp tố tụng có tính chất hạn chế QCN, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp như: bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác (Điều 21), khám xét chỗ ở (Điều 22)… phải do luật định mà không quy định như Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001 (Điều 73) là theo quy định của pháp luật. Đây là những quy định thể hiện sâu sắc tư tưởng pháp quyền, dân chủ, ngăn ngừa sự cắt xén, xâm phạm QCN, quyền công dân từ phía các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Như vậy, nhiệm vụ của VKSND trong bảo vệ QCN, quyền công dân phù hợp với chức năng được giao đảm nhiệm. Bởi lẽ, khi tiến hành tố tụng, VKSND không chỉ đóng vai trò của một bên (bên công tố, buộc tội) như pháp luật một số nước, mà còn được giao trách nhiệm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, chống làm oan người vô tội; không để người

nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, hạn chế các quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự, nhân phẩm một cách trái pháp luật.

Bằng hoạt động của mình, VKSND ngăn chặn vi phạm QCN, phát hiện vi phạm, khôi phục quyền, lợi ích vị xâm phạm, áp dụng biện pháp loại trừ nguyên nhân và điều kiện vi phạm. Pháp luật quy định cho VKS thẩm quyền trong giai đoạn điều tra mang tính bắt buộc thi hành đối với các chủ thể tham gia quan hệ tố tụng, nhất là đối với CQĐT và người THTT trong cơ quan này. Bằng cách đó VKS có thể can thiệp một cách nhanh chóng khi phát hiện vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra và thực sự là một lá chắn đáng tin cậy bảo vệ QCN của người tham gia tố tụng mà trước hết là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Ngoài ra hoạt động của VKS còn đảm bảo tính khách quan và tính hợp pháp cho kết quả của hoạt động điều tra - đối tượng xét xử của Tòa án ở giai đoạn tiếp theo. Hoạt động THQCT ở giai đoạn xét xử nhầm bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời bảo đảm tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, bảo đảm QCN của những chủ thể tham gia phiên tòa

1.4. Bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố của một số nước trên thế giới

1.4.1. Trung Quốc

Trong cấu trúc hệ thống tư pháp hình sự Trung Quốc, mỗi giai đoạn của một vụ án nằm trong phạm vi hoạt động của mỗi tổ chức thể chế riêng biệt. Các cuộc điều tra hoàn toàn do cơ quan công an tiến hành, giai đoạn luận tội được các Kiểm sát viên tiến hành và phiên tòa được tiến hành bởi Tòa án [30, tr.91]. Không có cơ quan nào trong số này phải chịu sự kiểm soát lẫn nhau, với cơ chế “kiểm tra và cân bằng” (checks and balances) không đáng kể. Khi không có sự giám sát chéo giữa các cơ quan, mỗi cơ quan có quyền quản lý hoàn

toàn trong lĩnh vực hoạt động của cơ quan đó và chỉ tuân theo quyền lực chính trị bao trùm của Đảng Cộng sản Trung Quốc và các cơ quan hành chính của Đảng, Nghị viện Nhân dân Toàn quốc. Sự cố hữu của hệ thống chính trị Trung Quốc đã làm mất đi tính độc lập của tòa án: Tòa án chịu trách nhiệm trước các ủy ban chính trị nhất định. Việc thiếu sự giám sát chéo giữa các cơ quan đã làm mất đi trách nhiệm giải trình của tòa án [11, tr.15].

Trong TTHS của nước Cộng hòa nhân dân (CHND) Trung Hoa, các đối tượng tham gia vào quan hệ tố tụng hình sự đều là chủ thể tham gia tố tụng. Khoản 2 Điều 82 Luật TTHS nước CHND Trung Hoa quy định “Người tham gia tố tụng là các bên đương sự bao gồm: người bị hại, tư tố viên, nghi can, bị cáo, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự…” [47]. Mặc dù luật không quy định khái niệm người bị tạm giam hay cụ thể hóa người bị tạm giam là một chủ thể tham gia tố tụng như trong BLTTHS Việt Nam nhưng trên cơ sơ những quy định của Luật TTHS nước CHND Trung Hoa, trong chương 4 về các biện pháp ngăn chặn có thể khẳng định người bị tạm giam cũng là một chủ thể tham gia tố tụng hình sự nước CHND Trung Hoa. Tại Điều 69 Luật TTHS nước CHND Trung Hoa quy định:

Nếu thấy cần phải bắt giam người đang bị tạm giữ thì trong vòng 3 ngày sau khi tạm giữ, cơ quan công an phải đề nghị Viện kiểm sát nhân dân thẩm tra phê chuẩn.

Trong thời hạn 7 ngày sau khi nhận được đề nghị phê chuẩn bắt giam của cơ quan công an, Viện kiểm sát nhân dân phải ra quyết định phê chuẩn hay không phê chuẩn. Nếu Viện kiểm sát nhân dân không phê chuẩn việc bắt giam, cơ quan công an phải thả ngay người bị bắt và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân mà không được trì hoãn [47, Điều 69].

Theo đó, người bị tạm giam trong TTHS nước CHND Trung Hoa bắt

buộc phải có quyết định phê chuẩn của Viện kiểm sát. Trong trường hợp Viện kiểm sát không phê chuẩn bắt giam thì cơ quan công an phải thả ngay người bị bắt. Ngay cả trong trường hợp thấy quyết định không phê chuẩn bắt giam của Viện kiểm sát nhân dân là không chính xác thì cơ quan công an có thể yêu cầu xem xét lại tuy nhiên vẫn phải thả ngay người đang bị tạm giam. Điều 70 Luật TTHS nước CHND Trung Hoa quy định:

Nếu thấy quyết định không phê chuẩn bắt giam của Viện kiểm sát nhân dân là không chính xác, cơ quan công an có thể yêu cầu xem xét lại, nhưng phải thả ngay người đang bị tạm giam. Nếu đề nghị không được chấp nhận, có thể đề nghị Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp xem xét. Viện kiểm sát nhân dân cấp trên phải kiểm tra ngay vụ việc và quyết định liệu có thay đổi hay không thay đổi và thông báo cho Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới và cơ quan công an thi hành quyết định của mình [47, Điều 70].

Đồng thời, Luật TTHS Trung Hoa cũng quy định một số quyền của người bị tạm giam như:

Quyền không bị coi là có tội khi chưa có bản án có hiệu lực của tòa án.

Điều 12 Luật TTHS nước CHND Trung Hoa quy định “Không ai bị coi là có tội nếu không bị xét xử và kết án bởi một Toà án nhân dân theo quy định của pháp luật” . Đây cũng là điểm tương đồng giữa luật pháp Trung Hoa và luật pháp Việt Nam.

Quyền được bào chữa. Một người bị tình nghi hình sự có quyền chỉ định một người bào chữa như luật sư bào chữa vào bất kỳ thời điểm nào kể từ thời điểm bị cơ quan điều tra thẩm vấn lần đầu hay thời điểm phải chịu các biện pháp bắt buộc. Trong trường hợp người bị tình nghi hình sự đang bị giam giữ, luật sư bào chữa có thể do người giám hộ hay người thân chỉ định đại diện cho họ. Trong trường hợp khó khăn về tài chính hay các lý do khác cản

trở người bị tình nghi hình sự chỉ định luật sư bào chữa, người bị tình nghi hay người thân của họ có thể yêu cầu tổ chức trợ giúp pháp lý để được trợ giúp pháp lý miễn phí [47]. Trung Quốc và Việt Nam về phân loại các hình thức bào chữa về cơ bản là giống nhau, nhưng quyền của người bào chữa trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam nhiều hơn, đóng vai trò quan trọng hơn người bào chữa của Trung Quốc [27].

Điều 96 Luật TTHS nước CHND Trung Hoa quy định: Sau khi nghi can bị cơ quan điều tra thẩm vấn lần đầu tiên hoặc từ ngày bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn thì nghi can có thể chỉ định một luật sư tư vấn pháp lý và thực hiện việc khiếu nại, tố cáo thay mặt mình. Nếu nghi can bị bắt, luật sư được chỉ định có thể thay mặt họ để yêu cầu có người bảo lĩnh trong giai đoạn chờ xét xử.

Mục 37, Luật TTHS nước CHND Trung Hoa quy định: Một người bị tình nghi hình sự hay bị can, bị cáo có quyền trao đổi thư từ và gặp gỡ luật sự bào chữa của họ. Trong trường hợp luật sư bào chữa yêu cầu trao đổi thư từ hay gặp gỡ người bị tình nghi hay bị can, bị cáo, cơ sở giam giữ phải thu xếp cuộc gặp đó trong vòng 48 giờ. Pháp luật nước CHND Trung Hoa cấm việc giám sát cuộc gặp giữa luật sư bào chữa và thân chủ của họ.

Quyền không bị quá hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn

Điều 124, Điều 126, Luật TTHS nước CHND Trung Hoa quy định: Thời hạn tạm giam nghi can trong quá trình điều tra sau khi bắt không được quá hai tháng. Đối với những vụ án phức tạp và không thể kết thúc điều tra trong thời hạn thì có thể được phép kéo dài thêm một tháng theo phê chuẩn của VKSND trực tiếp. Nếu vì những lý do đặc biệt, không thích hợp để đưa một vụ án phức tạp và nghiêm trọng ra xét xử thậm chí trong một thời gian khá dài, VKSND tối cao phải báo cáo Ủy ban thường vụ của Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc để phê chuẩn việc hoãn xét xử vụ án.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 02/07/2022