kiểm sát nhân dân (VKSND) có vai trò bảo vệ, bảo đảm thực hiện QCN quá trình giải quyết vụ án, một mặt không để lọt tội phạm, đồng thời phải bảo đảm không làm oan người vô tội, phát hiện và xử lý mọi hành vi vi phạm trong hoạt động tố tụng. Những quy định của pháp luật tạo ra cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm QCN trong hoạt động TTHS nói chung và trong hoạt động công tố của Viện kiểm sát (VKS) nói riêng, đồng thời còn góp phần đấu tranh xử lý tội phạm có hiệu quả.
Thực tiễn hoạt động TTHS trong những năm vừa qua ở tỉnh Hà Giang cho thấy, vai trò của VKSND trong việc bảo đảm QCN của người khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ công tố đã có những thành tựu nhất định. Các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân về cơ bản đã được bảo đảm, đã hạn chế được tình trạng oan, sai. Tuy nhiên, thực tế vẫn còn có nhiều hạn chế với những biểu hiện sau: a. Các cơ quan THTT chưa bảo đảm thực hiện đầy đủ các QCN mà cụ thể là quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong hoạt động TTHS, chưa giải thích các QCN được pháp luật quy định đối với họ và do vậy cũng không có biện pháp bảo đảm để thực hiện những quyền này từ phía các cơ quan THTT; b. Người THTT trong các cơ quan THTT còn có biểu hiện xâm phạm QCN trong quá trình tố tụng, như việc bức cung, dùng nhục hình… gây ra hậu quả đáng tiếc; c. Các cơ quan tố tụng và những người THTT lạm dụng việc bắt, giữ, giam người hoặc có hành vi phạm QCN trong quá trình thực hiện các biện pháp ngăn chặn trong TTHS; d. Hiện tượng bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội vẫn còn diễn ra do đó đã xâm phạm đến QCN; e. Việc thực hiện trách nhiệm phát hiện, ngăn chặn xử lý các hành vi xâm phạm QCN trong hoạt động TTHS của VKSND chưa cao dẫn đến tình trạng vi phạm...
Những hạn chế nêu trên do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân thuộc về quy định của pháp luật tố tụng chưa phù hợp với thực tiễn đấu
tranh xử lý tội phạm và việc bảo vệ QCN trong TTHS, những nguyên nhân về cán bộ, tổ chức, cơ chế vận hành, phối hợp giữa các cơ quan THTT…Vì vậy để góp phần nâng cao hiệu quả bảo đảm QCN trong hoạt động công tố - một chức năng quan trọng của VKS trong quá trình tố tụng giải quyết vụ án, tác giả đã chọn đề tài “Bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân (Trên cơ sở số liệu tại địa bàn tỉnh Hà Giang)" để làm Luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề bảo QCN nói chung, QCN trong hoạt động TTHS đã được nhiều tác giả nghiên cứu từ các góc độ và với các mức độ khác nhau.
Ở góc độ nghiên cứu về bảo vệ QCN nói chung trong Nhà nước pháp quyền, đã có các công trình "Quyền con người trong thế giới hiện đại" của PGS. PTS Hoàng Văn Hảo và PGS. Phạm Khiêm Ích, được Viện thông tin khoa học và xã hội cùng Trung tâm nghiên cứu quyền con người xuất bản năm 1995; công trình "Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của GS.TS. Trần Ngọc Đường, do nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2004; chuyên khảo "Quyền lực Nhà nước và quyền con người" của PGS. TS. Đinh Văn Mậu, do nhà xuất bản Tư pháp xuất bản năm 2003; Chuyên khảo “Quyền con người và luật quốc tế về quyền con người” của TS. Chu Hồng Thanh, do nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 1997; giáo trình “Lý luận và pháp luật về quyền con người” của PGS. TS. Nguyễn Đăng Dung, Ths. Vũ Công Giao, Ths. Lã Khánh Tùng (đồng chủ biên), do nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2009 v.v...
Ở góc độ pháp luật chuyên ngành nghiên cứu về những vấn đề bảo vệ QCN trong hoạt động tư pháp cũng như trong hoạt động tố tụng sự có các công trình nghiên cứu sau:
Về sách chuyên khảo, bài báo, đề tài khoa học có các công trình sau: Đề tài khoa học cấp Đại học quốc gia năm 2006 “Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam” do TSKH. PGS. Lê Văn Cảm, TS. Nguyễn Ngọc Chí, TS. Trịnh Quốc Toản đồng chủ trì; Tài liệu "Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam" tại Hội thảo về Quyền con người trong tố tụng hình sự (do Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Ủy ban nhân quyền Australia tổ chức tháng 3-2010) của PGS. TS. Nguyễn Thái Phúc; Chuyên khảo "Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam" của TS. Trần Quang Tiệp, do nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2004; bài báo "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người" của TS. Tường Duy Kiên, được công bố trên Tạp chí Nghề luật năm 2004; bài báo của TSKH. PGS. Lê Cảm "Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con người bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự", được công bố trên Tạp chí Tòa án nhân dân năm 2006 v.v...
Cấp độ luận án tiến sĩ luật học có đề tài: "Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay" của tác giả Nguyễn Quang Hiền, luận án tiến sĩ Luật học, Viện nhà nước và pháp luật, Hà Nội, năm 2008...
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân Trên cơ sở số liệu tại địa bàn tỉnh Hà Giang - 1
- Bảo Đảm Quyền Con Người Trong Tố Tụng Hình Sự
- Đặc Điểm Của Quyền Con Người Trong Tố Tụng Hình Sự Liên Quan Đến Thực Hành Quyền Công Tố Của Viện Kiểm Sát
- Khái Niệm Về Thực Hành Quyền Công Tố Và Bảo Đảm Quyền Con Người Trong Hoạt Động Thực Hành Quyền Công Tố Của Viện Kiểm Sát
Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.
Cấp độ luận văn thạc sĩ các đề tài: “Bảo vệ quyền của người chưa thành niên trong tư pháp hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Thanh, luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2008; đề tài: "Bảo vệ quyền con người của người làm chứng trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam" của tác giả Trần Thị Thùy Lương, luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2011; đề tài: "Quyền của người bị tạm giam trước khi xét xử - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" của tác giả Tiêu Phương Thúy, luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2014...
- Ở nước ngoài cũng đã nhiều tác giả nghiên cứu vấn đề bảo đảm QCN trong Nhà nước pháp quyền nói chung (The Rule of law của M. Hager); bảo đảm quyền con người trong hệ thống tư pháp (Saudi Arabia, human rights: Judicial system); bảo đảm quyền con người trong các nguyên tắc tố tụng hình sự (Principle of Criminal procedure của Neil Andrews); bảo đảm quyền con người trong xét xử vụ án hình sự (Human rights in the English criminal trial - Human rights in criminal procedure của K.W. Lidstone) hoặc nghiên cứu vấn đề bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội (The guarantees for accused persons under Article 6 of the European Convention on Human Rights của Stephanos Stavros)...
Trên cơ sở kết quả khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu cơ bản và trực tiếp về bảo đảm QCN nói chung, bảo đảm QCN trong tư pháp hình sự nói riêng. Các công trình nghiên cứu trên đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau về các quy định của pháp luật áp dụng đối với một số đối tượng bị hạn chế quyền tự do, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về bảo đảm QCN trong hoạt động THQCT của VKSND, nhất là gắn với hoạt động THQCT trên địa bàn tỉnh Hà Giang, một tỉnh biên giới phía Đông Bắc của Tổ Quốc. Điều này cho thấy việc nghiên cứu đề tài: "Bảo đảm quyền con người trong hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân (Trên cơ sở số liệu tại địa bàn tỉnh Hà Giang)" là cần thiết và có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn trong việc bảo đảm QCN ở nước ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về QCN mà cụ thể là quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, luận chứng vai trò của VKS trong bảo đảm QCN trong hoạt động THQCT. Đồng thời nghiên cứu thực
trạng quy định của pháp luật cũng như thực tiễn hoạt động THQCT của VKS theo luật TTHS trên cơ sở số liệu của VKSND tỉnh Hà Giang làm sáng tỏ những bất cập, hạn chế để đưa ra những kiến nghị và giải pháp tăng cường bảo đảm QCN trong hoạt động THQCT của VKS.
3.2. Nhiệm vụ
a. Phân tích, làm rò một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài như: các khái niệm QCN liên quan đến hoạt động quyền công tố; vị trí, ý nghĩa của việc quy định QCN trong TTHS liên quan đến hoạt động công tố của luật TTHS; đặc điểm QCN trong TTHS liên quan đến hoạt động công tố của luật TTHS; các tiêu chí quốc tế về QCN và bảo đảm QCN trong hoạt động công tố; bảo đảm QCN trong hoạt động công tố ở một số nước; cơ sở xác định vai trò của VKSND và các điều kiện bảo đảm vai trò của VKSND trong việc đảm bảo QCN trong THQCT của VKS.
b. Phân tích các quy định của BLTTHS liên quan đến bảo đảm QCN; tìm ra những hạn chế và bất câp về bảo đảm QCN trong hoạt động THQCT của VKS trên cơ sở số liệu của VKSND tỉnh Hà Giang. Từ đó tìm ra những hạn chế và bất cập về bảo đảm QCN trong hoạt động THQCT của VKS.
c. Đề xuất, kiến nghị những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS nhằm nâng cao vai trò của VKSND trong việc bảo đảm bảo QCN trong THQCT.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Về đối tượng nghiên cứu
Luận văn có đối tượng và phạm vi nghiên cứu là các văn bản pháp luật quốc tế và quốc gia về QCN trong hoạt động THQCT của VKSND trên cơ sở số liệu trên địa bàn tỉnh Hà Giang. Qua đó, tìm ra những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đồng thời đưa ra những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả việc bảo đảm QCN trong THQCT của VKSND.
- BLTTHS năm 2003;
- Phân tích, đánh giá những vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến bảo đảm QCN trong THQCT của VKSND. Trên cơ sở số liệu địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn (2010 - 2014).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, về QCN, các quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp, về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp cụ thể như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học, thảo luận, trực tiếp khảo sát, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Đây là công trình chuyên khảo ở cấp độ luận văn thạc sĩ nghiên cứu về vấn đề bảo đảm QCN trong hoạt động THQCT của VKS theo pháp luật TTHS hiện hành. Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng bảo đảm QCN của VKSND trên địa bàn tỉnh Hà Giang và kiến nghị các giải pháp tăng cường bảo đảm QCN trong TTHS.
Kết quả nghiên cứu của luận văn còn có giá trị tham khảo cho cán bộ cơ quan nhà nước có thẩm quyền nói chung cũng như ngành Kiểm sát nói riêng. Đồng thời, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật, trang bị những
kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các CQĐT, VKS, Tòa án và cơ quan Thi hành án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, mục lục.
Nội dung của Luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân.
Chương 2: Quy định của Luật tố tụng hình sự về bảo đảm quyền con người liên quan đến thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân.
Chương 3: Thực tiễn và các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố bảo đảm quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. Quyền con người và bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự
1.1.1. Quyền con người và quyền con người trong tố tụng hình sự
QCN là một khái niệm mang tính chất toàn cầu và được sử dụng ngày càng phổ biến trong các quan hệ quốc tế. QCN được tiếp cận dưới các góc độ khác nhau, nên QCN là một phạm trù đa diện và quan điểm về QCN phụ thuộc vào từng góc độ tiếp cận đó. QCN gắn liền với việc bảo đảm QCN, bởi bảo đảm QCN trong những tiêu chí để đánh giá bản chất của một Nhà nước pháp quyền và mức độ dân chủ của một quốc gia.
Phải đến thế kỷ thứ XVII, XVIII QCN mới được phát triển thành học thuyết với những quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, QCN mang tính tự nhiên. Bởi QCN là những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi cá nhân sinh ra đều được hưởng... Các quyền con người không phụ thuộc vào phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa hay ý thức của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng đồng hay Nhà nước nào. Vì vậy, không một chủ thể nào, kể cả Nhà nước có thể ban phát hay tước bỏ các quyền con người bẩm sinh, vốn có của các cá nhân [14, tr.39].
Quan điểm thứ hai cho rằng, QCN được đặt trong tổng hòa các mỗi quan hệ xã hội. Quan điểm này nhấn mạnh đến yếu tố lịch sử - xã hội của QCN. Bởi QCN là một giá trị nhân loại, đồng thời là một khái niệm có tính lịch sử, hình thành trong cuộc đấu tranh giai cấp và được bổ sung những nội dung mới qua các thời đại khác nhau. QCN không phải là khái niệm trừu