Bảo Đảm Quyền Con Người Trong Tố Tụng Hình Sự

tượng, cũng không chỉ là quyền cá nhân con người mang tính tự nhiên bẩm sinh mà luôn gắn liền với đấu tranh giai cấp, gắn liền với sự phát triển của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Quan điểm này cho rằng QCN chỉ có trong xã hội có đấu tranh chống áp bức bóc lột, chống bất công trong xã hội; gắn với trình độ phát triển và tiến bộ xã hội; chịu sự hạn định của chế độ kinh tế, đặc biệt của chế độ chính trị - Nhà nước [29, tr.16].

Sự khác nhau đó đã dẫn đến có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm QCN và sự đa dạng về cách hiểu, cách tiếp cận QCN là nguyên nhân của những tranh luận.

Ở cấp độ quốc tế, Văn phòng cao ủy Liên Hợp Quốc cho rằng: Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người” [61, tr.1]. Như vậy, quan điểm này đã nhấn mạnh chỉ có pháp luật và pháp luật phải ghi nhận, bảo đảm QCN như những bảo đảm toàn cầu.

Ở cấp độ quốc gia, TS. Trần Quang Tiệp cho rằng: “Quyền con người là những đặc lợi vốn có tự nhiên mà chỉ con người mới được hưởng trong những điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định” [48, tr.14]. TSKH. PGS Lê Cảm có quan điểm:

Quyền con người - một phạm trù lịch sử cụ thể, là giá trị xã hội cao quý nhất được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại và là đặc trưng tự nhiên vốn có cần được tôn trọng và không thể bị tước đoạt của bất kỳ cá nhân con người nào sinh ra trên trái đất, đồng thời phải được bảo vệ bằng pháp luật bởi các quốc gia - thành viên Liên Hợp Quốc, cũng như bởi cộng đồng quốc tế [2, tr. 15].

Như vậy, hai quan điểm này ngoài việc nhấn mạnh đến yếu tố lịch sử, tự nhiên và xã hội của QCN, còn nhấn mạnh đến pháp luật - một công cụ để

bảo đảm QCN. Mỗi quan điểm đều có cách tiếp cận dưới các khía cạnh khác nhau và đều có tính hợp lý của nó. Như vậy, có thể nêu ra một số đặc trưng cơ bản của QCN như sau:

Thứ nhất, QCN là những giá trị bất biến, vĩnh cửu và không thể phân chia hoặc xâm phạm (tước đoạt). Các giá trị đó gắn bó chặt chẽ đối với mỗi con người cả ở cấp độ cá nhân lẫn cấp độ xã hội.

Thứ hai, QCN là những giá trị mang tính đa quốc gia (quốc tế), được sự quan tâm của toàn nhân loại, tất cả các quốc gia và mỗi cá nhân trong xã hội. Luôn luôn phổ biến, hiện hữu và được thừa nhận chung, phải được thực hiện và bảo đảm ở mọi nơi. Phải được cụ thể hóa bằng các thế chế thành các quyền năng cụ thể và phải có cơ chế kiểm tra việc thực thi nó trong thực tế ở mọi cấp độ (quốc tế và quốc gia). Song bên cạnh tính phổ biến chung, thì QCN còn có tính đặc trưng riêng biệt, do con người chỉ được thụ hưởng quyền trong những điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội, trong từng giai đoạn khác nhau của xã hội loài người và trong từng quốc gia.

Thứ ba, QCN vừa mang tính chất tự nhiên vừa mang tính chất xã hội. Do đó, QCN phải được thể chế hóa thành các quy định pháp luật, ghi nhận nó thành các quyền, bảo đảm thực thi và bảo đảm quyền đó nếu bị vi phạm. Bởi con người sinh ra tự thân sẽ có những QCN nhưng chỉ trong xã hội có pháp luật, thì con người mới được hưởng quyền và được bảo đảm quyền. Có thể thấy, chỉ thông qua pháp luật và cùng với thiết chế giám sát, kiểm tra việc thực hiện nó thì những giá trị QCN mang tính chất tự nhiên và xã hội mới bền vững và hiệu quả được.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.

Với các đặc trưng về QCN trên, có thể khẳng định QCN luôn là mục đích chung phải hướng đến và đạt được của nhân loại, đồng thời khẳng định rò tính lịch sử, tính chính trị - xã hội với hai cơ sở tự nhiên và xã hội của QCN. Như vậy, tác giả cho rằng: Quyền con người là sự kết hợp giữa quyền

tự nhiên và quyền xã hội, được ghi nhận và bảo đảm bằng pháp luật ở cấp độ quốc tế và quốc gia, đồng thời được bảo đảm thực thi và giám sát trong thực tế bởi các cơ chế khác nhau.

Bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân Trên cơ sở số liệu tại địa bàn tỉnh Hà Giang - 3

QCN trong TTHS được các nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm do ở lĩnh vực này liên quan đến những quyền cơ bản thiết thân, những tự do cá nhân tối thiểu cần phải có trong đời sống hằng ngày của con người. Ở bình diện khái quát nhất, QCN trong TTHS được thể hiện ở hai khía cạnh: Thứ nhất, trừng trị người phạm tội gây ra những thiệt hại cho các quyền và lợi ích hợp pháp của con người, của các cơ quan tiến hành tố tụng, góp phần bảo vệ quyền con người; Thứ hai, khi THTT giải quyết vụ án, các cơ quan THTT có trách nhiệm tôn trọng và bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Các cơ quan THTT, người THTT không được lợi dụng quyền tiến hành giải quyết vụ án xâm phạm đến quyền của những người nêu trên. Tuy nhiên, phạm vi QCN trong TTHS liên quan đến thực hành quyền công tố hẹp hơn không bao gồm cả hai khuynh hướng trên mà chỉ là sự ghi nhận và bảo đảm quyền của những người yếu thế trong xã hội, bao gồm người bị bắt, bị tạm giữ, bị tình nghi phạm tội hoặc người bị kết án tránh sự lạm dụng người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. [8, tr.34].

QCN trong tố tụng hình sự có những đặc điểm sau:

Thứ nhất, đối tượng của quyền con người trong TTHS là quyền của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội, bao gồm: (a) Người bị tình nghi phạm tội đang trong quá trình giải quyết vụ án, đang bị các cơ quan THTT áp dụng biện pháp cưỡng chế của TTHS nhằm xác định sự thật khách quan vụ án. Những người này có thể là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và theo quy định của pháp luật họ chưa bị coi là người phạm tội mà mới chỉ là người bị tình nghi phạm tội; (b) Người phạm tội bị kết án và phải chấp hành hình phạt do Tòa án tuyên. Khác với người tình nghi phạm tội, đây là

người đã được các cơ quan THTT chứng minh và phán quyết là có tội, bị tuyên áp dụng hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của họ phù hợp với quy định của pháp luật và được phán quyết bởi thủ tục TTHS công bằng, khách quan; (c) Nhóm người tham gia tố tụng do có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án: Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người bào chữa…. Những người này ngoài việc tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho mình, họ còn góp phần làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án và góp phần bảo đảm cho sự công bằng trong quá trình giải quyết vụ án.

Thứ hai, QCN trong TTHS được quy định trong pháp luật quốc gia dựa trên các tiêu chí quốc tế về quyền con người trong các văn bản pháp luật quốc tế.

QCN nói chung và trong TTHS nói riêng được ghi nhận trong các văn bản pháp luật là tiền đề để quyền con người được bảo đảm thực thi trong đời sống. Thông qua các quy định của luật TTHS, Nhà nước trao cho con người những phương tiện cần thiết để bảo vệ các quyền của mình và thiết lập các cơ chế để giải quyết cũng như bảo đảm các quyền của các chủ thể tham gia tố tụng. QCN được quy định trong pháp luật TTHS bởi các lý do sau: (1) Pháp luật TTHS là công cụ hữu hiệu của Nhà nước trong việc thực hiện, bảo vệ QCN, quyền công dân trong các hoạt động TTHS; (2) Pháp luật TTHS chi phối hoạt động của các cơ quan THTT, người THTT trong việc bảo đảm các QCN, quyền công dân trong các hoạt động TTHS. Do đó, QCN trong THHS là tập hợp các quyền thuộc nhóm quyền dân sự, chính trị nhằm mục đích khẳng định danh dự nhân phẩm của con người trong mọi hoàn cảnh, bảo vệ các cá nhân khỏi sự tùy tiện và sự lạm quyền của các cơ quan và nhân viên Nhà nước trong các hoạt động tố tụng hình sự. Theo các văn bản pháp lý quốc tế về QCN thì QCN trong TTHS về cơ bản thuộc hai lĩnh vực sau: (1) Các quyền an toàn thân thể, danh dự, nhân phẩm… của cá nhân khi họ tham gia tố

tụng với tư cách người bị tình nghi phạm tội, người bị kết án phải chấp hành hình phạt hoặc người có tư cách khác khi tham gia tố tụng; (2) Quyền được xét xử công bằng bởi một tòa án độc lập. Các quyền này được ghi nhận trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966) (ICCPR - Việt Nam là thành viên từ năm 1982), trong các Bình luận chung của cơ quan giám sát Công ước này, cũng như trong một số hướng dẫn, nguyên tắc đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận liên quan.

Từ sự phân tích trên, tác giả luận văn chia sẻ và tán đồng với khái niệm QCN trong giáo trình Luật TTHS Việt Nam, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, đó là:

Quyền con người trong TTHS là tổng hợp các quyền thuộc nhóm quyền dân sự, chính trị nhằm mục đích khẳng định việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tôn trọng danh dự nhân phẩm của con người trong mọi hoàn cảnh cũng như bảo đảm việc xét xử công bằng bởi một tòa án độc lập khách quan đối với những người yếu thế (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án và những người tham gia tố tụng khác) khỏi sự tùy tiện và sự lạm quyền của các cơ quan và nhân viên nhà nước trong các hoạt động TTHS [8, tr.43].

1.1.2. Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự

Bảo đảm QCN trong TTHS là một trong những hợp phần có tính đặc thù của bảo đảm QCN nói chung. Ở mức độ khái quát nhất, bảo đảm QCN trong TTHS là những yếu tố để QCN được ghi nhận, thực thi trong quá trình giải quyết vụ án nhằm tôn trọng phẩm giá con người trong mọi hoàn cảnh. Thực hiện tốt bảo đảm QCN trong TTHS góp phần tích cực, có hiệu quả trong việc bảo đảm QCN nói chung.

Bảo đảm QCN trong TTHS là chức năng của nhà nước với cơ chế phù hợp trong điều kiện kinh tế - xã hội, pháp lý của mình. Do đặc điểm của hoạt

động TTHS là chức năng của nhà nước hướng tới sự kết hợp địa vị pháp lý và địa vị thực tế của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bi cáo và những người tham gia tố tụng khác. Nói cách khác các quy phạm pháp luật về QCN chỉ trở thành hiện thực khi có những bảo đảm ràng buộc của nhà nước. Với ý nghĩa đó thì bảo đảm QCN trong TTHS là thước đo, là biểu hiện tự do xã hội, trách nhiệm và tính tích cực của công dân. Tự thân các tiền đề kinh tế, chính trị, xã hội chưa phải là cơ sở để thực hiện quyền và tự do của con người trong TTHS. Chúng chỉ trở thành những bảo đảm QCN trong TTHS qua hình thức pháp lý và những nỗ lực tổ chức của nhà nước.

Bảo đảm QCN trong TTHS có vai trò quan trọng trong việc biến những nỗ lực, những ý tưởng tiến bộ của nhân loại ở các điều luật trở thành hiện thực trong thực tiễn giải quyết vụ án. Nói cách khác, bản thân các quy phạm pháp luật về QCN trong TTHS đã là một thành tố quan trọng trong việc bảo đảm QCN nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó, QCN trong TTHS sẽ không có trong thực tế và những quy phạm pháp luật sẽ trở thành vô nghĩa. Vì vậy, hình thành cơ chế đảm bảo QCN trong TTHS đòi hỏi khách quan mang tính quyết định mà nhà nước nào cũng cần quan tâm.

Bảo đảm QCN trong TTHS mang tính chất đặc thù xuất phát từ những đặc điểm của TTHS là một lĩnh vực hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước mà ở đó việc hạn chế các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là không thể tránh khỏi và các quyền, lợi ích đó có thể bị xâm phạm một cách nghiêm trọng bởi những người đại diện công quyền.

Việc bảo đảm QCN trong TTHS phải được vận hành bởi một cơ chế có hiệu quả của các yếu tố hợp thành, đó là: xây dựng được hệ thống pháp luật TTHS trên cơ sở các tiêu chí quốc tế về QCN, phù hợp với yêu cầu bảo đảm QCN ở mỗi quốc gia; Có các giải pháp thực thi có hiệu quả các QCN được quy định trong pháp luật TTHS của tất cả các chủ thể TTHS trong quá trình

giải quyết vụ án; Hình thành cơ chế giám sát bảo đảm QCN trong TTHS được thực thi nghiêm chỉnh. Ba yếu tố nêu trên tạo thành cơ chế bảo đảm QCN ở mỗi quốc gia và ở cấp độ khu vực cũng như ở phạm vi quốc tế.

Từ những phân tích nêu trên có thể đưa ra khái niệm về đảm bảo QCN trong TTHS như sau: “Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự là sự vận hành của các yếu tố khách quan nhằm mục đích công bố, ghi nhận về mặt pháp lý các quyền con người trong tố tụng hình sự và bảo vệ và thực thi các quyền đó trong quá trình giải quyết vụ án hình sự” [8, tr.43 - 45].

1.2. Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự liên quan đến thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát

1.2.1. Các quyền con người liên quan đến hoạt động công tố

Công tố là hoạt động có ảnh hưởng quan trọng, mang tính quyết định đối với quá trình giải quyết vụ án hình sự, nên nó liên quan, tác động đến tất cả các QCN trong TTHS, cụ thể là:

- Quyền sống

Quyền sống được quy định tại Điều 3 của Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 (UDHR), các điều 3, 4, 5, 7 của Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chung năm 1948 (CPPCG), Điều 6 của ICCPR năm 1966 và Điều 1 Công ước về không áp dụng thời hiệu tố tụng đối với tội ác chiến tranh và tội ác chống lại nhân loại năm 1968. Theo đó, tại Điều 6 thì: "Mọi người đều có quyền cố hữu là được sống. Quyền này phải được pháp luật bảo vệ. Không ai có thể bị tước mạng sống một cách tuỳ tiện". Theo đó, các quốc gia thành viên cần tiến hành các biện pháp phòng chống và trừng trị việc tuỳ tiện tước đoạt tính mạng con người do bất kỳ chủ thể nào gây ra. Quyền sống và bảo đảm các điều kiện tồn tại của con người đối với người bị tạm giam, luật nhân quyền quốc tế quy định phải bảo đảm những điều cần thiết về ăn, ở, chế độ dinh dưỡng, chăm sóc sức khỏe… đối với những người này trong thời gian họ bị giam giữ.

- Quyền an toàn thân thể, danh dự, nhân phẩm của cá nhân bị tước tự do

Điều 1 của UDHR tuyên bố "Tất cả mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và quyền. Mọi con người đều được tạo hoá ban cho lý trí và lương tâm và cần phải đối xử với nhau trong tình bằng hữu". UDHR năm 1948, Điều 3 khẳng định: "Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân". Tiếp theo đó, UDHR, Điều 5 khẳng định "Không ai bị tra tấn hay bị đối xử, xử phạt một cách tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm".

Tinh thần này tiếp tục được khẳng định tại các Điều 7 và 17 của ICCPR, theo đó, không ai bị xâm phạm bất hợp pháp đến danh dự và uy tín. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại những xâm phạm như vậy. Không ai có thể bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt một cách tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm. Đặc biệt, không ai có thể bị sử dụng để làm thí nghiệm y học hoặc khoa học mà không có sự đồng ý tự nguyện của người đó.

Điều 10 ICCPR quy định: “Những người bị tước tự do phải được đối xử nhân đạo với sự tôn trọng nhân phẩm vốn có của con người”. Theo đó thì việc đối xử với bị can, bị cáo trong hệ thống trại tạm giam nhằm mục đích chính yếu là làm sáng tỏ vụ việc chứ không phải nhằm mục đích trừng phạt hay hành hạ họ. Khoản 2 Điều này quy định:

Trừ những hoàn cảnh đặc biệt, bị can, bị cáo phải được giam giữ tách biệt với những người đã bị kết án và phải được đối xử theo chế độ riêng, phù hợp với quy chế dành cho những người bị tạm giam. Những bị can chưa thành niên phải được giam giữ tách riêng khỏi người lớn và phải được đưa ra xét xử càng sớm càng tốt.

Ủy ban giám sát ICCPR cho rằng việc đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm của những người bị tạm giam là một nguyên tắc cơ bản về nhân

Xem tất cả 123 trang.

Ngày đăng: 02/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí