Khái Niệm, Đặc Điểm Bảo Đảm Quyền Con Người Trong Tố Tụng Hình Sự

thuộc mọi dân tộc đang sinh sống trên phạm vi toàn cầu, không phân biệt quốc tịch, không phụ thuộc vào biên giới quốc gia hay tư cách cá nhân của chủ thể, thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với toàn thể cộng đồng nhân loại.

Quyền công dân là khái niệm gắn liền với Nhà nước, thể hiện mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước, được xác định b i chế định quốc tịch. Quyền công dân là tập hợp những quyền con người được pháp luật của một nước ghi nhận và chỉ những người mang quốc tịch của một nước thì mới được hư ng các quyền công dân mà pháp luật nước đó quy định. Ví dụ: theo Điều 27 Hiến pháp năm 2013 thì công dân đủ 18 tuổi tr lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi tr lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân [30].

Các đặc điểm (tính chất) của quyền con người. Quyền con người có những tính chất cơ bản sau đây:

- Tính phổ biến:


Tính phổ biến của quyền con người thể hiện chỗ quyền con người được áp dụng chung cho tất cả mọi người, không phân biệt màu da, dân tộc, giới tính, tôn giáo, độ tuổi, thành phần xuất thân. Con người, dù trong những chế độ xã hội riêng biệt, thuộc những truyền thống văn hóa khác nhau vẫn được công nhận là con người và được hư ng những quyền và sự tự do cơ bản [23, tr.42].

- Tính đặc thù:


Mặc dù tất cả mọi người đều được hư ng quyền con người nhưng mức độ thụ hư ng quyền có sự khác biệt, phụ thuộc vào năng lực cá nhân của từng người, hoàn cảnh chính trị, truyền thống văn hóa xã hội mà người đó đang sống. Ở mỗi vùng, mỗi quốc gia khác nhau, vấn đề quyền con người mang những sắc thái, đặc trưng riêng gắn liền với trình độ phát triển kinh tế - xã hội

khu vực đó.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

- Tính không thể bị tước bỏ:


Bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự - 4

Trong quan niệm chung của cộng đồng quốc tế, quyền con người không thể tùy tiện bị tước bỏ hay hạn chế một cách tùy tiện b i bất cứ chủ thể nào, kể cả các cơ quan và quan chức nhà nước. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định được pháp luật quy định trước, chỉ có những chủ thể đặc biệt mới có thể hạn chế quyền con người. Ví dụ: tù nhân bị giam do thực hiện hành vi phạm tội [23, tr.44].

- Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quyền:


Tất cả các quyền con người đều có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, việc thực hiện tốt quyền này sẽ là tiền đề để thực hiện quyền kia. Ngược lại, khi có một quyền bị xâm phạm thì sẽ ảnh hư ng đến các quyền khác. Ví dụ: nếu một người không được làm việc, không có một mức sống đảm bảo cho sự sống còn của cá nhân thì người đó sẽ ít chú ý đến các quyền dân chủ như Quyền bầu cử hoặc Quyền tham gia quản lý nhà nước, xã hội.

1.2.2. Khái niệm, đặc điểm bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự

Khái niệm về quyền con người trong tố tụng hình sự đã được đưa ra nhưng chủ yếu là nhấn mạnh đến quyền con người bị buộc tội mà chưa chú ý đến quyền của những người khác tham gia tố tụng hình sự: Quyền con người trong tố tụng hình sự là những quyền thiêng liêng chỉ dành cho con người khi họ tham gia quan hệ pháp luật tố tụng hình sự mà nhà nước có nghĩa vụ phải ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm thực hiện trên thực tế.

* Đặc điểm:


Thứ nhất, bảo vệ quyền con người thông qua các nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự Nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS là những phương châm, định hướng chi phối toàn bộ hay một số giai đoạn của hoạt động TTHS

trong quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật TTHS. Những nguyên tắc cơ bản này đã thể hiện đầy đủ quan điểm định hướng của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo vệ quyền con người. Trong số 30 nguyên tắc cơ bản được quy định Bộ luật TTHS năm 2003 (từ Điều 3 - Điều 32) những cấp độ khác nhau đều thể hiện tinh thần bảo vệ quyền con người với hai định hướng: (1) Xử lý nhanh chóng, kịp thời đúng pháp luật đối với tội phạm xâm phạm quyền con người và (2) Đảm bảo không làm ảnh hư ng tới quyền con người khi tiến hành tố tụng.

Thứ hai, bảo vệ quyền con người thông qua quy định của luật TTHS về các biện pháp ngăn chặn. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự các cơ quan THTT được áp dụng nhiều biện pháp cưỡng chế trong đó có biện pháp ngăn chặn. Biện pháp ngăn chặn là chế định pháp lý quan trọng được quy định tại Chương VI Bộ luật TTHS bao gồm các biện pháp: Bắt; tạm giữ; tạm giam; cấm đi khỏi nơi cư trú; bảo lãnh; đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm. Nhằm tránh việc lợi dụng của các cơ quan THTT và người THTT khi áp dụng áp dụng những biện pháp này xâm hại đến quyền con người Luật TTHS quy định chặt chẽ mục đích, căn cứ, thẩm quyền, thủ tục áp dụng.

Thứ ba, bảo vệ quyền con người thông qua các quy định về kh i tố vụ án hình sự Kh i tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu của quá trình giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan có thẩm quyền có nhiệm vụ sử dụng các biện pháp của TTHS để xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm, trên cơ s đó các cơ quan này sẽ ra một trong hai quyết định: Quyết định kh i tố vụ án hình sự và Quyết định không kh i tố vụ án hình sự. Việc kh i tố vụ án hình sự đối với tội phạm nói chung và các tội xâm phạm quyền công dân có ý nghĩa quan trong trong cơ chế bảo vệ quyền con người của hệ thống pháp luật nước ta. Chính vì vậy, Bộ luật TTHS quy định căn cứ, cơ s của việc kh i tố vụ án và

không kh i tố vụ án hình sự cũng như thẩm quyền, trình tự, thủ tục ra Quyết định kh i tố vụ án và việc kiểm sát kh i tố vụ án hình sự.

Thứ tư, bảo vệ quyền con người thông qua các quy định về điều tra - truy tố Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn của TTHS trong đó Cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao một số hoạt động điều tra có trách nhiệm chứng minh tội phạm, người phạm tội và những vấn đề khác có liên quan đến vụ án làm cơ s cho việc xét xử của Toà án. Đồng thời thông qua hoạt động điều tra xác định nguyên nhân điều kiện phạm tội đối với từng vụ án cụ thể và kiến nghị các biện pháp phòng ngừa với các cơ quan và tổ chức hữu quan. Giai đoạn điều tra thực chất là quá trình làm sáng tỏ tất cả sự thật khách quan vụ án của Cơ quan điều tra nhằm phục vụ cho việc xử lý tội phạm bảo vệ quyền con người vì vậy các quy định về điều tra của Luật TTHS đều hướng tới mục tiêu này.

Thứ năm, bảo vệ quyền con người thông qua các quy định về xét xử Xét xử là hoạt động trung tâm của quá trình giải quyết vụ án hình sự thể hiện bản chất của nền tư pháp quốc gia nên việc bảo vệ quyền con người được thể hiện tập trong nhất trong hoạt động xét xử của Tòa án.

Thứ sáu, bảo vệ quyền con người thông qua các quy định về thi hành bản án Thi hành bản án là giai đoạn cuối của quá trình giải quyết vụ án hình sự và nó cũng ảnh hư ng không ít tới quyền con người nên luật TTHS cũng quy định trình tự thủ tục cụ thể để tránh sự lợi dụng xâm phạm quyền con người.

1.2.3. Khái niệm, đặc điểm bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

Trong số các chủ thể tham gia tố tụng thì vấn đề bảo đảm quyền của bị can, bị cáo đặc biệt là người bị bắt có tầm quan quan trọng đặc biệt. Bời lẽ

người bị bắt là một chủ thể đặc biệt mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ dễ bị xâm phạm trong quá trình tiến hành tố tụng, bị áp dụng biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất, bị tước đoạt một số quyền công dân để phục vụ điều tra, truy tố, xét xử. quyền và lợi ích hợp pháp của họ rất dễ bị những người tiến hành tố tụng vô hình hoặc cố ý xâm hại vị một lý do nào đó [12, tr 52]. Với vị trí tố tụng như vậy, chúng ta cần nghiên cứu và tìm hiểu về khái niệm bảo đảm quyền con người nói chung, trong đó có bảo đảm quyền con người của người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.

Xuyên suốt trong lịch sử kiến tạo nhà nước Việt Nam mới từ năm 1945 cho đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc bảo vệ, phát huy các quyền con người, quyền công dân. Sự thừa nhận của Nhà nước bằng các định chế pháp lý và sự bảo đảm bằng các biện pháp thực tiễn khác nhau cho thấy Việt Nam mọi quyền con người đều được thừa nhận và bảo vệ. Bảo đảm quyền con người là bảo đảm dân chủ, bảo đảm hiệu quả, hiệu lực nhà nước cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đây là mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta luôn hướng tới. Việc bảo đảm các quyền con người, quyền công dân phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tư ng... trong đónhà nước bảo đảm về mặt pháp lý, các cơ quan tố tụng bảo đảm thực thi pháp luật có hiệu quả là vấn đề cực kỳ quan trọng.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định quan điểm “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người”. Như vậy có thể thấy Nhà nước tự nhận trách nhiệm, nghĩa vụ phải tôn trọng các quyền con người; bảo đảm quyền con người. Nhằm bảo đảm quyền con người, Hiến pháp 2013 của nước ta đã ghi nhận hai nguyên tắc quan trọng: (i) các quyền về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội phải được tôn trọng; (ii) Nhà nước có nghĩa vụ đảm bảo

thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của công dân [30]. Từ hai nguyên tắc này và để đảm bảo thực hiện trên thực tế, Hiến pháp 2013 đã quy định cơ chế thực hiện như sau:

- Bảo đảm quyền con người thông qua hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước đảm bảo thực hiện. Điều 6 Hiến pháp 2013 quy định: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông quacác cơ quan khác của Nhà nước” [30]. Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất do nhân dân cả nước bầu ra, bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân bằng các phương thức sau: xây dựng Hiến pháp và pháp luật, ghi nhận ý chí, nguyện vọng của nhân dân, thể chế hoá các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật của các chủ thể, nhất là các chủ thể nắm giữ quyền lực nhà nước; quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước. Hội đồng nhân dân đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương, thực hiện việc giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước địa phương. Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp chính là các thiết chế quan trọng trong việc bảo đảm các quyền con người cơ bản nói chung trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam.

- Quyền con người, quyền công dân được đảm bảo thực hiện b i hệ thống cơ quan hành pháp. Chính phủ và uỷ ban nhân dân các cấp là chủ thể có trách nhiệm đưa pháp luật đi vào cuộc sống, làm cho quyền và nghĩa vụ của công dân tr thành hiện thực, là cơ quan trực tiếp quản lý nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; trong đó cơ quan công an (cơ quan điều tra) có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ trật tự pháp luật và pháp chế.

- Quyền con người, quyền công dân còn được bảo đảm qua hệ thống cơ quan tư pháp. Toà án và Viện kiểm sát là các cơ quan bảo vệ pháp chế, quyền

làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, tập thể và tính mạng, danh dự, nhân phẩm... của con người.

Tố tụng hình sự là toàn bộ trình tự, thủ tục xác định tội phạm và xử lý đối vớingười phạm tội, hướng tới mục tiêu chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tộiphạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, hướng tới mục tiêu không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Tuy nhiên, lĩnh vực TTHS có thể trực tiếp hoặc gián tiếp đưa lại các hậu quả pháp lí liên quan đến sinh mạng chính trị, uy tín, danh dự, tính mạng, sức khỏe, tài sản của người tham gia tố tụng. Lĩnh vực TTHS do đó được xếp vào nhóm "có nguy cơ cao" trong việc tác động tiêu cực đến quyền con người của người tham gia tố tụng. Đặc biệt là đối với người bị bắt - là những người đang bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn, với tính chất như các biện pháp hạn chế quyền con người. Do đó đối với những người này nhu cầu cần thiết là hoạt động bảo đảm quyền con người của họ. Khái niệm "quyền" nói chung đượchiểu là "điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho được hư ng, đượclàm, được đòi hỏi" thì với quyền của bị bắt trong TTHS, tínhchất "được hư ng", được nhận nhiều hơn là "được làm, được đòi hỏi".

Tương tự như vậy, nếu khái niệm "quyền" được hiểu là khả năng xử sự theocách thức nhất định mà pháp luật cho phép; khả năng yêu cầu các chủ thể khác chấm dứt việc cản tr thực hiện quyền; khả năng yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền can thiệp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân) thì với quyền của người bị bắt trong TTHS, cả ba khả năng trên cũngluôn có xu hướng bị hạn chế xuất phát từ trình độ nhận thức pháp luật và tâm lí pháp luật đặc thù của người bị bắt.

Bảo đảm quyền con người đã được nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu. Bảo đảm quyền con người, quyền công dân là việc tạo ra các điều kiện về chính

trị, kinh tế, xã hội, pháp lý và tổ chức để cá nhân, công dân, các tổ chức của công dân thực hiện được các quyền, tự do, lợi ích chính đáng của họ đã được pháp luật ghi nhận. Bảo đảm quyền con người là việc xác định các biện pháp pháp lý, các biện pháp tổ chức, cơ chế để bảo vệ các quyền con người, quyền công dân khi bị xâm phạm từ phía cơ quan công quyền hay từ các chủ thể khác nhằm khôi phục các quyền đã bị xâm phạm. Từ góc nhìn của khoa học luật, trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân thì các bảo đảm pháp lý về quyền con người có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trong bất kỳ lĩnh vực pháp luật gì, việc bảo đảm quyền con người luôn được đặt ra, trong đó có việc bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực tố tụng hình sự nói chung và trong giai đoạn điều tra nói riêng. B i trong TTHS, bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự xét đến cùng không chỉ đơn thuần là bảo vệ quyền con người mà còn hướng đến đảm bảo bảo tính đúng đắn và tính hợp pháp của hoạt động kh i tố, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm và người phạm tội [31,tr.42]. Bằng các quy định của pháp luật TTHS cũng như các văn bản khác có liên quan, Nhà nước quy định một cách đầy đủ các biện pháp, thiết chế khác nhau để bảo đảm các quyền con người cơ bản của các đối tượng khác nhau trong tố tụng hình sự như người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, người làm chứng, những người tham gia tố tụng khác. Trong đó việc bảo đảm quyền con người của người bị bắt trong giai đoạn điều tra là một trong những yêu cầu như vậy.

Như vậy, bảo đảm quyền con người của người bị bắt trong giai đoạn điều tra chính là một trong các trường hợp bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự nói chung. Trong TTHS, việc áp dụng các biện pháp tố tụng đối với những chủ thể khác nhau để nhằm tìm ra sự thật của vụ án có nguy cơ cao xâm phạm tới các quyền con người cơ bản. B i lẽ, các biện pháp tố tụng hình sự có thể hạn chế, tác động tới một số quyền con người đã được thừa nhận

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 28/06/2022