Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân – Thực tiễn tại tỉnh Yên Bái - 14

nghiệp vụ; số đã được đào tạo cơ bản và đào tạo không cơ bản; số có trình độ, năng lực còn có thể đào tạo và số không còn khả năng đào tạo. Đánh giá, phân loại khả năng giải quyết công việc thực tế của họ để từ đó có những đề xuất, biện pháp đào tạo lại, bố trí sắp xếp công việc hợp lý. Thường xuyên tổ chức bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho những đối tượng này để họ có thể nắm chắc, vận dụng thành thạo các thao tác nghiệp vụ trong hoạt động ADPL trong thực hành quyền công tốgiai đoạn điều tra các VAHS để họ có thể chỉ đạo và trực tiếp làm tốt công việc.

- Tiêu chuẩn hóa việc bổ nhiệm chức vụ Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS cấp huyện phụ trách khâu kiểm sát giải quyết án hình sự. Người được bổ nhiệm vào chức vụ này phải là Cử nhân Luật hệ chính quy và đã qua đào tạo nghiệp vụ kiểm sát; trường hợp có bằng Cao đẳng kiểm sát hệ tập trung chính quy thì phải học qua hệ chuyên tu tại cơ sở đào tạo Cử nhân Luật hoặc thông qua lớp đổi bằng cử nhân; phải có thời gian làm công tác kiểm sát giải quyết án hình sự ít nhất từ 5 năm trở lên; phải có phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp; có kinh nghiệm tổ chức hoạt động thực hành quyền công tố, có khả năng chỉ đạo hoạt động này; có uy tín trong việc phối kết hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng, nhất là CQĐT.

- Trong công tác tổ chức cán bộ, cần chấm dứt tình trạng những người không có bằng Cử nhân Luật được tiếp nhận vào làm công việc hành chính, sau đó được cử đi học các hệ đào tạo không chính quy và bố trí vào làm công tác chuyên môn nghiệp vụ. Mặt khác, cũng nên chú ý tạo điều kiện cho những cán bộ trẻ có năng lực đi học trình độ sau đại học để đào tạo lớp cán bộ nguồn kế cận có trình độ, năng lực, đáp ứng yêu cầu công việc.

Trong điều kiện cải cách tư pháp hiện nay, vấn đề nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, KSV được đặt ra hết sức cấp bách. Để đáp ứng yêu cầu trên, ngành Kiểm sát cần có kế hoạch định kỳ tổ chức đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu cho KSV về kỹ năng thực hành quyền công tố đối với từng loại tội phạm cụ thể. VKSND tỉnh Yên Bái cần thường xuyên tổ chức những cuộc hội thảo theo các chuyên đề, các cuộc thi tìm hiểu kiến thức pháp luật, cuộc thi xử lý các tình huống trong hoạt động ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra...

nhằm thúc đẩy phong trào hăng say nghiên cứu, học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, Kiểm tra viên, KSV.

3.2.2.3. Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho ngành Kiểm sát, hoàn thiện chế độ chính sách đối với cán bộ, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên

Khi nhận xét về cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của các cơ quan tư pháp Nghị quyết 08 của Bộ chính trị đã chỉ rò: “Cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của các cơ quan tư pháp chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, nhất là ở cấp huyện nhiều nơi trụ sở còn rất chật chội, phương tiện làm việc vừa thiếu lại vừa lạc hậu; chính sách đối với cán bộ tư pháp chưa tương xứng với nhiệm vụ và trách nhiệm được giao”.

Trong những năm qua, ngành Kiểm sát đã được sự quan tâm đầu tư về cơ sở vất chất, cải thiện đáng kể về đời sống, sinh hoạt cho cán bộ, KSV, tuy nhiên so với mặt bằng chung thì cơ sở vật chất, điều kiện và phương tiện làm việc ở phần lớn các VKS địa phương còn thiếu thốn, lạc hậu. Khi phân bổ ngân sách cũng như khi quy định tiêu chuẩn, định mức diện tích trụ sở làm việc, trang thiết bị, phương tiện phục vụ công việc, định mức chi tiêu ngân sách, Nhà nước vẫn coi ngành Kiểm sát như các ngành hành chính sự nghiệp; mức chi cho cán bộ, KSV còn rất thấp, mức chi cho công tác nghiệp vụ, mua sắm, sửa chữa trụ sở... chưa đáp ứng yêu cầu. Trong khi đó, khối lượng công việc ngày càng tăng, nhất là trong lĩnh vực giải quyết án hình sự, tội phạm diễn biến rất phức tạp trên nhiều lĩnh vực, có xu hướng hoạt động theo ổ nhóm, theo đường dây, lưu động trên nhiều địa bàn; có những tổ chức phạm tội âm ỉ hoạt động nhiều năm, liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp; sử dụng thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin vào hoạt động phạm tội nên việc đấu tranh chống tội phạm ngày càng trở nên khó khăn, phức tạp. Đặc biệt đáng lưu ý là tình trạng gia tăng các loại tội phạm dẫn đến quá tải trong việc giải quyết án do lực lượng biên chế còn mỏng đã hạn chế hiệu quả của công tác kiểm sát điều tra ngay từ đầu.

Do vậy, việc đảm bảo cơ sở vật chất, điều kiện làm việc cho các cơ quan tư pháp nói chung và ngành Kiểm sát nói riêng là vấn đề cấp thiết. Trong điều kiện cải cách tư pháp, cùng với việc tăng thẩm quyền cho các cơ quan tư pháp cấp huyện, đòi hỏi phải có sự đầu tư mạnh mẽ về cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc cho

VKSND các cấp, đặc biệt là VKSND cấp huyện, từng bước thực hiện theo đúng tinh thần Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.

Nhà nước bảo đảm điều kiện vật chất cho hoạt động tư pháp phù hợp với đặc thù của từng cơ quan tư pháp và khả năng của đất nước; có cơ chế cho phép địa phương hỗ trợ kinh phí hoạt động cho cơ quan tư pháp... Từng bước xây dựng trụ sở làm việc của các cơ quan tư pháp khang trang, hiện đại, đầy đủ tiện nghi; ưu tiên trang bị phương tiện phục vụ công tác điều tra, đấu tranh phòng chống tội phạm, công tác xét xử, công tác giám định tư pháp. Tăng cường áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của các cơ quan tư pháp... Có chế độ, chính sách tiền lương, khen thưởng phù hợp với lao động của cán bộ tư pháp... [7].

Hiện nay, chế độ tiền lương và phụ cấp đối với cán bộ, KSV ngành Kiểm sát cũng giống với cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính Nhà nước. Điều này là chưa phù hợp bởi tính đặc thù của ngành, đặc biệt là đối với KSV sơ cấp (hệ số lương của KSV sơ cấp thấp nhất là 2,34 và cao nhất là 4,98). Thực tế, đời sống của cán bộ, Kiểm tra viên, KSV sơ cấp còn rất nhiều khó khăn, chưa đảm bảo mức sống trung bình theo mặt bằng chung, trong khi đây lại là lực lượng chủ yếu trực tiếp thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành. Do vậy, cần có sự điều chỉnh hệ số lương đối với cán bộ, KSV ngành Kiểm sát cho phù hợp để cán bộ ngành Kiểm sát, nhất là ở cấp huyện có sự phấn đấu đạt được mức thu nhập phù hợp với công việc, năng lực, trình độ chuyên môn của mình.

Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân – Thực tiễn tại tỉnh Yên Bái - 14

3.2.3. Nhóm các giải pháp khác

3.2.3.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của ngành Kiểm sát nói chung và hoạt động áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái nói riêng

Nghị quyết số 08–NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị nêu rò: “Đảng lãnh đạo cơ quan tư pháp chặt chẽ về chính trị, tổ chức và cán bộ, bảo đảm hoạt động tư pháp thực hiện đúng quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước” [5]. Các cơ quan tư pháp hoạt động phải đúng quan điểm của Đảng, pháp luật Nhà nước, khắc phục tình trạng cấp ủy Đảng buông lỏng lãnh đạo hoặc can thiệp không đúng vào hoạt

động tư pháp. Nội dung tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với hoạt động của ngành Kiểm sát nói chung và hoạt động ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND tỉnh Yên Bái nói riêng cần tập trung vào một số vấn đề sau:

Thứ nhất: Đảng đề ra quan điểm chỉ đạo xây dựng, hoàn thiện tổ chức bộ máy hoạt động của VKSND; các quan điểm chỉ đạo trên cơ sở các quy định của pháp luật và phù hợp với tình hình chính trị ở địa phương để giải quyết một số vụ án hình sự phức tạp, nhạy cảm, có nhiều quan điểm khác nhau giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.

Thứ hai: Đảng lãnh đạo VKSND thông qua công tác tổ chức cán bộ, công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, quản lý đội ngũ cán bộ chủ chốt của VKSND; nghiêm khắc xử lý các cán bộ thoái hóa, biến chất, vi phạm pháp luật; nhận xét, đánh giá cán bộ và kiến nghị việc bổ nhiệm, sắp xếp những cán bộ lãnh đạo của VKS địa phương.

Thứ ba: Đảng chỉ đạo sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan tư pháp, nhất là các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như chỉ đạo sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và các cơ quan thông tin đại chúng trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Thứ tư: Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của VKSND trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Đảng lãnh đạo tổ chức và hoạt động của VKSND thông qua các cấp ủy Đảng, các tổ chức cơ sở Đảng và các Đảng viên trong từng đơn vị VKS bằng các hoạt động cụ thể như: quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp, đề bạt, thi hành kỷ luật... Đảng lãnh đạo các VKS bằng việc kiểm tra, giám sát chấp hành Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kịp thời phát hiện để uốn nắn các sai sót trong hoạt động của cán bộ, đảng viên. Đảng lãnh đạo, kiểm tra hoạt động của VKS trên cơ sở pháp luật, tôn trọng chức năng, quyền hạn của VKSND, tạo điều kiện để VKS hoàn thành nhiệm vụ. Các cấp ủy Đảng phải thường xuyên tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng cho đội ngũ cán bộ, Kiểm tra viên, KSV VKSND.

3.2.3.2. Hoàn thiện cơ chế giám sát của cơ quan dân cử và nhân dân đối với hoạt động áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái

Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị đã nêu rò:

Tăng cường sự giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, của các tổ chức xã hội và của nhân dân đối với công tác tư pháp. Công tác giám sát của Quốc hội, của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp tập trung vào việc chấp hành pháp luật trong lĩnh vực bắt, tạm giữ, tạm giam, truy tố, xét xử, thi hành án và giám sát việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực tư pháp... .

Hình thức giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội, của Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, của các cơ quan ngôn luận và quần chúng nhân dân... là các hình thức giám sát tác động mạnh mẽ đến chất lượng của hoạt động tư pháp nói chung và chất lượng ADPL trong thực hành quyền công tố của VKSND nói riêng. Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 (có hiệu lực từ 01/7/2016) là cơ sở pháp lý để Quốc hội và Hội đồng nhân dân tiến hành giám sát các hoạt động của bộ máy nhà nước, trong đó có hoạt động của các cơ quan tư pháp. Giám sát do Quốc hội thực hiện là hình thức giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy Nhà nước. Giám sát của Quốc hội đối với hoạt động thực hành quyền công tố của VKSND được thực hiện thông qua việc chất vấn và trả lời chất vấn của Viện trưởng VKSND tối cao về những vấn đề liên quan đến hoạt động của VKSND. Hoạt động giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu quốc hội đối với VKSND được thực hiện thông qua các chương trình giám sát hàng năm hoặc đột xuất nhằm đảm bảo chất lượng ADPL trong thực hành quyền công tố của VKS, hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng làm oan người vô tội và để lọt tội phạm. Trong

thời gian tới, việc nghiên cứu, ban hành Luật Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận sẽ tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động giám sát của các tổ chức này đối với các cơ quan tư pháp.

Thực tiễn hoạt động tư pháp trong thời gian qua cho thấy công tác giám sát đã có tác động rất lớn trong việc phát hiện hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm cũng như bảo đảm chất lượng của hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Qua hoạt động giám sát, các quyết định ADPL của VKS có dấu hiệu oan, sai, thiếu tính thuyết phục, thiên lệch sẽ được phát hiện để sửa chữa hoặc hủy bỏ kịp thời nhằm hạn chế những tác hại gây ra đối với xã hội, nhờ vậy đã góp phần hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng làm oan người vô tội và để lọt tội phạm. Tuy nhiên, để hoạt động giám sát của cơ quan dân cử, tổ chức xã hội và nhân dân đạt kết quả cao thì cần phải đổi mới mạnh mẽ cơ chế và phương thức hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp theo hướng tăng cường đại biểu chuyên trách, nâng cao chất lượng đại biểu, theo đó đại biểu phải có sự chuẩn hoá về trình độ học vấn, trình độ chuyên môn nghiệp vụ nhất định.

3.2.3.3. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái với các cơ quan bảo vệ pháp luật, cơ quan thông tin đại chúng trên địa bàn trong hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm

Các cơ quan tiến hành tố tụng đều có quyền năng pháp lý được quy định trong pháp luật tố tụng hiện hành. Qua thực tế, do nhiều lý do khác nhau nên vẫn còn có những trường hợp nhận thức, đánh giá về vụ án, vụ việc chưa thống nhất, vẫn còn tình trạng “quyền anh, quyền tôi” trong quá trình giải quyết các VAHS.

Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị và Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI chỉ rò phải “Tăng cường công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra”. Vì vậy, việc tăng cường quan hệ phối hợp giữa VKS và CQĐT trong việc giải quyết các VAHS là vấn đề hết sức cần thiết, cần được tiến hành thường xuyên, liên tục. Để công tác phối kết hợp đạt kết quả tốt, các cơ quan tư pháp nói chung, VKS và CQĐT nói riêng phải thực hiện tốt các yêu cầu sau:

- Cần xây dựng quy chế phối hợp trong việc điều tra các vụ án hình sự; quy

chế cần được xây dựng chi tiết, cụ thể các tình huống, các bước xử lý trong quá trình điều tra các vụ án hình sự.

- Về nguyên tắc, trong quan hệ giữa CQĐT và VKS thì các Điều tra viên là đối tượng phải chấp hành các yêu cầu của KSV. Tuy nhiên, để đi đến kết quả là điều tra làm rò và xử lý kịp thời, chính xác VAHS, không oan, sai, lọt tội phạm thì giữa ĐTV và KSV phải có sự phối kết hợp chặt chẽ; các yêu cầu của KSV (nhất là yêu cầu điều tra) phải được ĐTV chấp hành triệt để, ngược lại, các yêu cầu, đề nghị của KSV cũng phải có căn cứ và xét thấy cần thiết cho việc giải quyết vụ án cũng như tính khả thi của yêu cầu, đề nghị đó.

- VKS và CQĐT phải thường xuyên giao ban để tháo gỡ những vướng mắc trong việc giải quyết án đồng thời định kỳ tiến hành họp giao ban liên ngành với các cơ quan tư pháp để tìm biện pháp thúc đẩy tiến độ giải quyết án hình sự; giải quyết những vướng mắc, những đề xuất kiến nghị của từng ngành; xác định những vụ án trọng điểm nhằm đảm bảo phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương.

- VKS và CQĐT cần thường xuyên phối hợp tổ chức các lớp tập huấn, hội nghị, hội thảo chuyên đề về lĩnh vực giải quyết án hình sự để các KSV, Điều tra viên nắm chắc các thao tác nghiệp vụ và phát huy được khả năng, năng lực của mình; thông qua đó trao dồi kiến thức pháp lý và kỹ năng giải quyết các vụ án hình sự.

- Tăng cường hơn nữa mối quan hệ, phối hợp với các cơ quan báo chí và công luận của Trung ương cũng như địa phương trong việc tuyên truyền hoạt động ADPL và kết quả hoạt động thực hành quyền công tố của VKSND, từ đó phát huy vai trò của cơ quan báo chí trong việc phát hiện, đưa tin về vi phạm, tội phạm để đưa ra xử lý trước pháp luật, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị tại địa phương.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3


Chương 3 của luận văn được trình bày trong 2 tiết gồm 25 trang. Trên cơ sở đánh giá một cách khách quan, toàn diện những kết quả đạt được cũng như những tồn tại, hạn chế trong hoạt động áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND tỉnh Yên Bái những năm gần đây và trước yêu cầu khách quan của cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm, tác giả đã nêu ra phương hướng nâng cao chất lượng ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra. Từ đó, tác giả đề xuất các nhóm giải pháp và các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND tỉnh Yên Bái để đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.

Xem tất cả 129 trang.

Ngày đăng: 26/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí