Kiện Toàn Tổ Chức Bộ Máy, Nâng Cao Chất Lượng Công Tác Chỉ Đạo Điều Hành Của Lãnh Đạo Viện Kiểm Sát

Những hạn chế, bất cập nêu trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực và hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm; chưa thực sự tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước cũng như cho việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền của người dân. Do đó, việc xây dựng, ban hành BLHS mới nhằm thay thế BLHS năm 1999 là hoàn toàn đúng đắn và hết sức cần thiết.

Với tinh thần sửa đổi toàn diện, ngày 27/11/2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua BLHS năm 2015 gồm có 26 chương với 426 điều, được thiết kế thành 3 phần (phần Những quy định chung, phần Các tội phạm và phần Điều khoản thi hành), có hiệu lực từ 01/7/2016.

Tuy nhiên, do quá trình soạn thảo và ban hành BLHS 2015 có một số lỗi nên Quốc hội đã quyết định lùi hiệu lực thi hành BLHS 2015, BLTTHS 2015, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự 2015 và Luật thi hành tạm giữ, tạm giam 2015 từ ngày 01/7/2016 đến ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS có hiệu lực thi hành, trừ một số quy định có lợi cho người phạm tội. Từ đó có thể thấy, để đẩy mạnh chủ trương cải cách tư pháp nói chung và nâng cao chất lượng ADPL trong thực hành quyền công tố của VKSND nói riêng, trước hết cần phải có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đồng bộ, rò ràng, minh bạch, dễ hiểu và dễ thực hiện, nhất là pháp luật hình sự và tố tụng hình sự.

* Tăng cường công tác giải thích, hướng dẫn ADPL

Một trong những yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền là phải có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, có tính khả thi cao; pháp luật phải thể chế hóa một cách kịp thời và chính xác chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước. Có được một hệ thống pháp luật hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp như đã nêu trên nhưng không có sự giải thích, hướng dẫn ADPL để tạo ra cách hiểu và nhận thức thống nhất trong hệ thống cơ quan ADPL và mọi công dân thì hoạt động ADPL cũng không thể chính xác và đồng bộ được. Để đảm bảo thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và của VKS nói riêng trong hoạt động giải quyết VAHS thì các cơ quan tiến hành tụng

và người tiến hành tố tụng cần phải có sự thống nhất trong quan điểm, nhận thức pháp luật, có như vậy mới ADPL được chính xác và thống nhất.

Quốc hội đã ban hành BLHS 2015 và BLTTHS 2015, mặc dù hai bộ luật này vẫn chưa có hiệu lực thi hành nhưng có nhiều các quy định liên quan đến việc ADPL còn có vướng mắc, bất cập. Thực tiễn trong thời gian qua cho thấy công tác hướng dẫn ADPL của các ngành tư pháp trung ương chưa được thực hiện đầy đủ, hướng dẫn còn thiếu thống nhất, công tác giải thích pháp luật thuộc quyền hạn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội chưa được chú trọng. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho việc ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND còn lúng túng, kết quả đạt được chưa cao.

Trong hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và hoạt động ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND tỉnh Yên Bái nói riêng, cần có văn bản hướng dẫn, giải thích một cách cụ thể một số vấn đề như: quyền công tố, thực hành quyền công tố, quyền tư pháp, cơ quan tư pháp, hoạt động tư pháp, kiểm sát hoạt động tư pháp... Những khái niệm này tưởng như rất quen thuộc và được nhắc đến hàng ngày nhưng thực ra lại chưa được quy định và giải thích tại một văn bản pháp lý nào. Điều này dẫn đến một thực trạng là không chỉ người dân mà chính nhiều cán bộ công tác trong các cơ quan tư pháp cũng chưa có nhận thức chính thống về những vấn đề này. Như vậy, hoạt động ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND còn gặp rất nhiều khó khăn khi chưa có văn bản pháp lý chính thức quy định, hướng dẫn về những vấn đề trên.

Thực tế cho thấy, với những quy định của pháp luật còn tồn tại những vướng mắc nhưng chưa có sự hướng dẫn cụ thể, kịp thời và thống nhất đã gây khó khăn rất lớn trong hoạt động điều tra, giải quyết VAHS, ảnh hưởng tới hiệu quả và chất lượng ADPL trong thực hành quyền công tố của VKS nói chung và ở giai đoạn điều tra VAHS nói riêng. Ví dụ điển hình cho sự không thống nhất trong nhận thức pháp luật cũng như trong các văn bản hướng dẫn pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử gây tồn đọng án cũng như lúng túng, bất đồng quan điểm của các cơ quan tiến hành tố tụng đó là Thông tư liên tịch số 17

ngày 24/12/2007 hướng dân

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.

áp duṇ g môt

số quy điṇ h về tội phạm ma túy và Công

Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân – Thực tiễn tại tỉnh Yên Bái - 13

văn 234/TANDTC-HS ngày 17/9/2014 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Thông tư 17. Từ khi TAND tối cao ban hành Công văn 234 yêu cầu “phải trưng cầu giám định hàm lượng” ma túy đã làm phát sinh rất nhiều khó khăn, vướng mắc cho các cơ quan tiến hành tố tụng. Tổng số vụ án ma túy hồ sơ bị trả đi, trả lại giữa các cơ quan tiến hành tố tụng mà không thể xét xử đã kéo theo nhiều hệ lụy, kéo dài thời gian giải quyết án và dẫn đến nhiều vi phạm tố tụng như: vượt quá số lần điều tra bổ sung, trùng lặp về yêu cầu điều tra bổ sung, nhiều vụ án trong tình trạng “lơ lửng”, tỷ lệ giải quyết án không đạt theo chỉ tiêu quy định… Mặc dù sau đó, Bộ Công an, VKSND tối cao, Tòa án nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp đã ký kết Thông tư liên tịch số 08 ngày 14/11/2015, trong đó đã sửa đổi, bổ sung một số quy định của Thông tư 17, tuy nhiên vẫn chưa tháo gỡ được những vướng mắc trong việc giám định hàm lượng chất ma túy, Tòa án nhân dân tối cao vẫn chỉ đạo Tòa án các cấp phải yêu cầu giám định hàm lượng đối với tất cả những trường hợp mà kết luận giám định ghi “có thành phần của hêrôin” hoặc “là chế phẩm của hêrôin”; trong khi đó, phần lớn các kết luận giám định về ma túy ghi như trên. Đây là vướng mắc rất cần được các cơ quan có thẩm quyền ở Trung ương tháo gỡ kịp thời, để các cơ quan tiến hành tố tụng có sự thống nhất về nhận thức đối với các trường hợp phải giám định về hàm lượng chất ma túy.

Mặt khác, xã hội luôn thay đổi, nhiều hành vi phạm tội đã được biến tướng trong khi các quy định của pháp luật chưa kịp thời được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp nên các cơ quan tiến hành tố tụng cũng cần phải thường xuyên, tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, tổ chức rút kinh nghiệm để tìm ra vướng mắc, kịp thời có kiến nghị, hướng dẫn hoặc sửa đổi phù hợp để tháo gỡ khó khăn cho các cơ quan tư pháp, đồng thời cũng tạo được một hệ thống pháp luật mới.

Để nâng cao chất lượng ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND tỉnh Yên Bái thì cần có sự thống nhất giữa các cơ quan hữu quan trong việc ban hành các văn bản giải thích, hướng dẫn APPL, tạo điều kiện cho các chủ thể ADPL được thống nhất. Trong thời gian tới, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác này theo định hướng sau:

- Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần ban hành kịp thời các văn bản giải thích ngay sau khi ban hành các Bộ luật, Luật, Pháp lệnh.

- Các cơ quan tư pháp trung ương cần mở rộng việc ban hành các thông tư liên tịch để hướng dẫn ADPL, hạn chế ban hành các văn bản hướng dẫn đơn ngành, tránh việc hướng dẫn và ADPL không thống nhất gây ra vướng mắc ở mỗi ngành.

- Các cơ quan tư pháp trung ương cần có đơn vị giúp Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong việc giải thích pháp luật, đồng thời tham mưu, đề xuất với lãnh đạo đơn vị mình ban hành các văn bản hướng dẫn, giải thích pháp luật. Các cơ quan cấp trên cần có sự phối hợp thường xuyên, làm công tác rà soát toàn bộ các văn bản hướng dẫn ADPL đang có hiệu lực cũng như các văn bản hướng dẫn ADPL đã bị bãi bỏ để hàng tháng, hàng quý, hàng năm hệ thống hóa các văn bản hướng dẫn ADPL về Hình sự và TTHS, công bố rộng rãi từ trung ương đến cấp cơ sở để các chủ thể ADPL kịp thời nắm bắt và thực hiện. Có thể áp dụng công nghệ thông tin, mở website riêng trong việc hệ thống hóa các văn bản pháp luật để đáp ứng kịp thời, nhanh chóng, chính xác.

3.2.2. Nhóm các giải pháp đối với ngành Kiểm sát

3.2.2.1. Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng công tác chỉ đạo điều hành của lãnh đạo Viện kiểm sát

* Về kiện toàn tổ chức bộ máy

Cải cách tư pháp là yêu cầu cấp thiết của Đảng, Nhà nước ta hiện nay, nhằm mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì dân. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị nhấn mạnh:

VKS các cấp thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng, nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.

Tiếp đó, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần

thứ XI chỉ rò phải: “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành điều tra khi thi hành nhiệm vụ” [7].

Trong điều kiện tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải cách tư pháp, nhấn mạnh tính công khai, dân chủ của hoạt động tư pháp, yêu cầu đặt ra hàng đầu là không được để xảy ra oan, sai, đồng thời không được để lọt tội phạm và người phạm tội. Do đó cần phải từng bước đổi mới bộ máy tổ chức của VKSND theo hướng VKS giữ vai trò chỉ đạo hoạt động điều tra, công tố phải gắn với hoạt động điều tra ngay từ đầu.

Xuất phát từ những yêu cầu trên về kiện toàn tổ chức bộ máy của VKSND, để nâng cao chất lượng ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND tỉnh Yên Bái cần thực hiện một số nội dung sau:

Thứ nhất: Bố trí, sắp xếp tổ chức bộ máy, các khâu công tác nghiệp vụ, xác định rò nhu cầu về biên chế, cơ cấu KSV ở từng đơn vị trong hai cấp của tỉnh để tổng hợp báo cáo VKSND tối cao có kế hoạch quyết định cơ cấu biên chế trong toàn ngành theo quy định của Luật tổ chức VKSND 2014.

Thứ hai: Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ của ngành phải xuất phát từ việc quán triệt sâu sắc tinh thần các Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của ngành. Xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm sát trên cơ sở phù hợp với cơ chế chính sách và đường lối đổi mới của Đảng. Phải quán triệt quan điểm Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ. Xác định rò mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ ở cả hai cấp kiểm sát trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp và yêu cầu tiêu chuẩn hóa cán bộ, bảo đảm đủ về số lượng, đáp ứng được tiêu chuẩn về trình độ và năng lực nghiệp vụ chuyên môn; đồng bộ về cơ cấu, bảo đảm sự kế thừa, chuyển tiếp các thế hệ cán bộ, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và chuẩn hóa cán bộ của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Thứ ba: Hết sức coi trọng và tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt các

cấp, trẻ hóa cán bộ trên cơ sở tiêu chuẩn, bảo đảm tính liên tục, tính kế thừa, khắc phục tình trạng hẫng hụt, chắp vá, thiếu cán bộ. Phải nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của công tác điều động và luân chuyển cán bộ, công tác quy hoạch và kế hoạch đào tạo. Có quan điểm và phương pháp đánh giá, sử dụng và đề bạt cán bộ một cách khoa học, công tâm, khách quan và bảo đảm đúng quy trình.

Thứ tư: Cần xác định đào tạo, bồi dưỡng là nội dung quan trọng của công tác cán bộ, do đó phải tập trung tạo điều kiện cho các cán bộ có điều kiện học tập nâng cao trình độ, kiến thức khoa học pháp lý và nâng cao năng lực, nghiệp vụ chuyên môn. Đồng thời tạo điều kiện cho những cán bộ cần đào tạo lại có cơ hội được đào tạo theo đúng tiêu chuẩn, chất lượng, góp phần đa dạng hóa các mô hình đào tạo và đẩy mạnh tốc độ tiêu chuẩn hóa cán bộ.

* Nâng cao chất lượng công tác chỉ đạo điều hành

Công tác chỉ đạo điều hành đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức, năng lực áp dụng pháp luật của cán bộ, KSV trong hoạt động thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Lãnh đạo VKSND tỉnh Yên Bái cần chỉ đạo các đơn vị rà soát, sửa đổi, bổ sung Quy chế hoạt động cho phù hợp với yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành theo Luật Tổ chức VKSND 2014; duy trì chế độ giao ban giữa lãnh đạo Viện với lãnh đạo các phòng và lãnh đạo VKS cấp huyện theo định kỳ, kịp thời nắm bắt những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, trên cơ sở đó kịp thời chỉ đạo, định hướng và đề ra giải pháp cụ thể để tổ chức thực hiện có hiệu quả các hoạt động thực hiện chức năng của ngành.

Căn cứ vào Chỉ thị công tác của Viện trưởng VKSND tối cao, lãnh đạo VKSND tỉnh cần xây dựng kế hoạch công tác hàng năm với những chỉ tiêu nghiệp vụ và các biện pháp thực hiện cụ thể, đặc biệt là chú trọng xác định các khâu công tác cần tạo ra sự đột phá. Quan tâm, chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra nhằm xác định rò những việc làm được và chưa làm được, những khó khăn, vướng mắc, nhất là các vướng mắc trong các khâu công tác nghiệp vụ kiểm sát; chỉ rò những thiếu sót, hạn chế và nguyên nhân trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ để đề ra định hướng, chỉ đạo, tháo gỡ khó khăn cho các đơn vị.

Lãnh đạo VKS cũng cần đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong hoạt động thực hành quyền công tố cũng như hoạt động kiểm sát điều tra. Cần xây dựng cơ chế thỉnh thị, trả lời thỉnh thị đối với những vụ án có tính chất phức tạp, có nhiều quan điểm khác nhau trong giải quyết vụ án, tuy nhiên phải bảo đảm và thực hiện tốt nguyên tắc tập trung, lãnh đạo thống nhất trong ngành, đáp ứng yêu cầu giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời, đầy đủ và phù hợp với quy định của pháp luật.

3.2.2.2. Nâng cao ý thức chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên

* Nâng cao ý thức chính trị, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái

Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị đánh giá:

Phần lớn cán bộ làm công tác tư pháp giữ vững phẩm chất chính trị, có tinh thần trách nhiệm và hoàn thành nhiệm vụ, nhiều đồng chí đã tận tụy với công việc, có những trường hợp đã hy sinh cả tính mạng trong cuộc đấu tranh chống tội phạm. Tuy nhiên, Nghị quyết cũng chỉ ra: Công tác cán bộ của các cơ quan tư pháp chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình hiện nay. Đội ngũ cán bộ còn thiếu về số lượng, yếu về trình độ và năng lực nghiệp vụ, một số bộ phận tiêu cực, thiếu trách nhiệm, thiếu bản lĩnh, sa sút về phẩm chất đạo đức. Đây là vấn đề nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến kỷ cương, pháp luật, giảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước [5].

Muốn nâng cao chất lượng cán bộ đòi hỏi mỗi cán bộ, KSV, Kiểm tra viên phải tự rèn luyện ý thức chính trị và phải luôn xác định công tác kiểm sát là công tác chính trị. Phải luôn quán triệt đường lối, chính sách của Đảng đẻ vận dụng vào công tác kiểm sát, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn cách mạng. Rèn luyện ý thức chính trị tức là đòi hỏi mỗi cán bộ, KSV, Kiểm tra viên phải nắm vững các nghị quyết, chủ trương của Đảng, cấp ủy địa phương trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm. Rèn luyện nâng cao ý thức chính trị sẽ giúp cán bộ, KSV, Kiểm tra viên thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của ngành một cách có lý có

tình, được quần chúng nhân dân tin tưởng, đồng tình ủng hộ. Xa rời ý thức chính trị dễ làm cho cán bộ, KSV, Kiểm tra viên mất ý thức rèn luyện, dễ bị những lợi ích vật chất cám dỗ và đi đến vi phạm pháp luật. Việc rèn luyện ý thức chính trị phải đi đôi với việc rèn luyện phẩm chất đạo đức theo tinh thần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng và khiêm tốn”.

Hoạt động ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra khiến cho KSV thường xuyên phải tiếp xúc với những mặt trái của xã hội và các hành vi vi phạm, tội phạm. Do đó, nếu KSV không thường xuyên trau dồi đạo đức và rèn luyện ý thức chính trị của mình thì rất dễ bị mua chuộc, cám dỗ. Khi KSV có ý thức chính trị và phẩm chất đạo đức sẽ chủ động vượt qua mọi khó khăn hoàn thành nhiệm vụ.

* Nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của đội ngũ cán bộ, KSV, Kiểm tra viên

Để nâng cao chất lượng ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND tỉnh Yên Bái, một đòi hỏi khách quan là phải nâng cao trình độ pháp lý và trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho KSV. Cải cách tư pháp không những đòi hỏi phải chuẩn hóa tiêu chuẩn của KSV mà còn yêu cầu nâng cao hơn nữa kỹ năng nghiệp vụ thực hành quyền công tố. Các KSV đương nhiên phải là những người nắm vững pháp luật, đồng thời phải có trình độ chuyên môn cao để có thể chủ động, sáng tạo, linh hoạt trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. KSV phải tự học tập để nâng cao trình độ theo tiêu chuẩn quy định, phải thường xuyên trau dồi về kỹ năng nghiệp vụ, nắm bắt kịp thời các văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành để áp dụng vào công việc.

Hoạt động ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND là hoạt động hết sức quan trọng để giải quyết một VAHS, đòi hỏi KSV phải có năng lực, chuyên môn nghiệp vụ vững vàng. Đây là yếu tố vô cùng quan trọng đảm bảo cho việc ADPL được đầy đủ, chính xác, thực hiện tốt chức năng của toàn ngành Kiểm sát. Muốn vậy cần phải thực hiện những việc sau:

- Rà soát lại trình độ, năng lực của đội ngũ lãnh đạo, KSV ở VKS các cấp theo các yêu cầu sau: Trình độ văn hóa và trình độ lý luận chính trị; trình độ chuyên môn

Xem tất cả 129 trang.

Ngày đăng: 26/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí