pháp luật cho nhân dân, từ sự hiểu biết pháp luật, nhân dân sẽ tham gia thực hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật, tố giác những hành vi vi phạm pháp luật trong quan hệ hôn nhân, đồng thời qua thực tiễn ADPL trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình sẽ phát hiện ra những thiếu sót trong pháp luật để có những đề xuất sửa đổi các điều khoản của pháp luật cho phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn trong từng giai đoạn cụ thể.
Bên cạnh những mặt đã đạt được, qua quá trình kiểm tra giám đốc án và xét xử phúc thẩm của TAND thành phố Hà Nội đã phát hiện có những thiếu sót của việc ADPL trong quá trình giải quyết, nên dẫn đến một số vụ án bị sửa, huỷ; một số ít vụ án còn bị dây dưa kéo dài, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các đương sự. Trong hoạt động xét xử, ngành Toà án thành phố Hà Nội cũng đã bộc lộ một số tồn tại, như án tồn đọng còn nhiều, vi phạm thời hạn tố tụng. Đặc biệt, một số vụ án do ADPL không chuẩn xác, nên còn bị sửa, huỷ nhiều lần, kéo dài nhiều năm gây ảnh hưởng đến đời sống, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc nhân dân khiếu kiện vượt cấp đến các cơ quan Trung ương. Tồn tại trên là những lực cản trở trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền tại Việt Nam.
Xuất phát từ lý do trên tôi chọn đề tài “Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án về Hôn nhân và gia đình trên địa bàn Hà Nội” làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong việc giải quyết các vụ án nói chung và ADPL trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình nói riêng đã được giới khoa học pháp lý và nhất là những người trực tiếp làm công tác xét xử của ngành Toà án quan tâm nghiên cứu. Đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài viết đề cập đến một số khía cạnh về những vấn đề liên quan đến đề tài như:
- Trương Kim Oanh ( 1996), Hòa giải trong tố tụng dân sự, Luận văn thạc sy Luật học;
- Đặng Quang Phương (1999), Thực trạng của các bản án hiện nay và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các bản án, Tạp chí TAND số 7, 8;
- Nguyễn Văn Cừ, (2000), Quyền sở hữu của vợ chồng theo luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 11;
- Nguyễn Văn Cừ - Ngô Thị Hường, (2002), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luạn Hôn nhân và gia đình năm 2000, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội;
- Bùi Văn Thuấn (2002), Phụ nữ và pháp luật, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản riêng và chung, Nxb Phụ nữ, Hà Nội;
Có thể bạn quan tâm!
- Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án về Hôn nhân và gia đình trên địa bàn Hà Nội - 1
- Khái Niệm Áp Dụng Pháp Luật Trong Giải Quyết Án Hôn Nhân Và Gia Đình
- Nội Dung Hoạt Động Áp Dụng Pháp Luật Trong Giải Quyết Án Hôn Nhân Và Gia Đình
- Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án về Hôn nhân và gia đình trên địa bàn Hà Nội - 5
Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.
- Nguyễn Hồng Hải (2003), Bàn về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo pháp luật Việt Nam hiện nay, Tạp chí luật học số 2;
- Trần Thị Quốc Khánh (2004), Từ hòa giải trong truyền thống dân tộc đến hòa giải cơ sở ngày nay, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 11;
Qua nghiên cứu những công trình nêu trên cho thấy, các tác giả chỉ đề cập mặt này hay mặt khác của việc ADPL trong quá trình giải quyết án Hôn nhân và gia đình, mà chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, đầy đủ việc ADPL trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình nói chung, cũng như trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích của luận văn
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận về ADPL trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình;
+ Đánh giá thực tiễn của việc ADPL trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình tại thành phố Hà Nội;
+ Đề ra những giải pháp đảm bảo việc ADPL trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình của TAND ở thành phố Hà Nội hiện nay.
* Nhiệm vụ của luận văn
+ Xây dựng khái niệm ADPL trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình
và phân tích các đặc điểm, nội dung, cũng như nêu lên các giai đoạn của việc ADPL trong hoạt động giai quyết án hôn nhân và gia đình;
+ Đánh giá kết quả đạt được, những ưu điểm, hạn chế của hoạt động ADPL trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình của TAND ở thành phố Hà Nội và rút ra các nguyên nhân khách qua và nguyên nhân chủ quan của hạn chế;
+ Nêu lên các quan điểm, yêu cầu và đề xuất các giải pháp cụ thể như: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Toà án; hoàn thiện các quy phạm pháp luật nhằm đảm bảo ADPL trong gải quyết án Hôn nhân và gia đình; Kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực của đội ngũ Thẩm phán, cán bộ Toà án và Hội thẩm nhân dân… nhằm đảm bảo việc ADPL trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình của TAND ở thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Là việc ADPL trong hoạt động giải quyết án Hôn nhân và gia đình của Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội.
* Phạm vi nghiên cứu: Luận văn xem xét nghiên cứu tình hình ADPL để giải quyết án Hôn nhân và gia đình của các Toà án nhân dân ở thành phố Hà Nội trong khoảng thời gian từ năm 2009 đến năm 2012.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật, trong đó có vấn đề ADPL giải quyết án Hôn nhân và gia đình.
* Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của Triết học Mác – Lênin về duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử và logic, phương pháp kết hợp lý luận và thực tiễn; phương pháp phân tích tổng hợp thống kê, so sánh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động ADPL trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình, làm sáng tỏ đặc thù của loại án này ở thành phố Hà Nội.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng, chỉ ra những bất cập trong hoạt động ADPL giải quyết án Hôn nhân và gia đình ở thành phố Hà Nội và đề ra các giải pháp có tính khả thi nhằm đảm bảo ADPL trong hoạt động giải quyết án Hôn nhân và gia đình có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp.
Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần cung cấp cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn cho những người trực tiếp làm công tác ADPL trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình, nhằm thực hiện và chấp hành nghiêm chỉnh Luật Hôn nhân và gia đình. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu giảng dạy, học tập trong các trường Đại học chuyên luật, hệ thống các trường chính trị của Đảng, cho những người trực tiếp đang làm công tác xét xử tại TAND nói chung và Toà án nhân dân ở Hà Nội nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1: Cơ sở lý luận về trong giải quyết án hôn nhân và gia đình của Tòa án nhân dân.
Chương 2: Thực trạng trong giải quyết án hôn nhân và gia đình của Tòa án nhân dân trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả trong giải quyết án hôn nhân và gia đình của Tòa án nhân dân trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT ÁN HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN
1.1. Khái niệm đặc điểm áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đình
1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật
Thực hiện đúng đắn và nghiêm chỉnh pháp luật là một yêu cầu khách quan của cơ quan quản lý nhà nước bằng pháp luật ở nước ta hiện nay. Pháp luật được ban hành nhiều nhưng ít đi vào cuộc sống thì điều đó chứng tỏ công tác quản lý nhà nước kém hiệu quả. Do đó, xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Vậy thực hiện pháp luật là gì? Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, tạo ra cơ sở pháp lý cho hành động thực tế của các chủ thể pháp luật. Các quy phạm pháp luật (QPPL) rất phong phú cho nên hình thức thực hiện chúng cũng khác nhau. Căn cứ vào tính chất của hoạt động,thực hiện pháp luật, khoa học pháp lý đã xác định những hình thức thực hiện pháp luật sau:
- Tuân thủ pháp luật: Là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật tự kiềm chế, không tiến hành các hoạt động hay hành vi mà pháp luật ngăn cấm.
- Thi hành pháp luật: Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể tích cực thực hiện nghĩa vụ của mình theo pháp luật quy định.
- Sử dụng pháp luật: Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể tích cực chủ động thực hiện các quyền chủ thể của mình theo quy định của pháp luật.
- (ADPL) (hiểu theo một cách khái quát) là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó Nhà nước dựa vào pháp luật để trao quyền cho các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, các cá nhân để căn cứ vào các quy định pháp luật ban hành các quyết định cá biệt làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một quan hệ pháp luật cụ thể.
Quan niệm ADPL như vừa nêu trên được thể hiện rất rò trong đời sống xã hội. Chẳng hạn, để ADPL hình sự nhằm buộc kẻ phạm tội phải chịu trách nhiệm pháp luật hình sự thì nhà nước đã trao quyền cho Toà án và Toà án căn cứ vào các quy định cụ thể của pháp luật hình sự để xét xử ra một bản án (văn bản ADPL hình sự) buộc kẻ phạm tội phải chịu một hình phạt nhất định. Hoặc để bảo vệ an toàn giao thông, Nhà nước bằng pháp luật đã quy định cho các chiến sỹ cảnh sát giao thông có quyền áp dụng các quy phạm pháp luật giao thông ra các quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với các chủ thể có hành vi vi phạm luật giao thông vượt đèn đỏ, đi ngược chiều… Ngoài ra, trong một số trường hợp, Nhà nước cũng cho phép một số tổ chức xã hội được ADPL, như pháp luật về thành lập Hội...
Trong các hình thức thực hiện pháp luật, thì ADPL là một hình thức thực hiện pháp luật đặc biệt, vì pháp luật ở đây được thực hiện bởi các chủ thể nắm quyền lực nhà nước. Nếu tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật là những hình thức mà mọi chủ thể pháp luật đều có thể tự thực hiện thì ADPL là hình thức luôn có sự tham gia của Nhà nước. ADPL là hình thức rất quan trọng của thực hiện pháp luật. Trong đó pháp luật tác động vào cuộc sống, vào các quan hệ xã hội để đạt được hiệu quả cao nhất, các quy định của nó đều được thực hiện triệt để, bởi vì ADPL luôn có sự can thiệp của Nhà nước.
Trong thực tế, nếu chỉ thông qua các hình thức thực hiện pháp luật như: tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật, thì pháp luật có lúc không được thực hiện triệt để vì các chủ thể không tự giác thực hiện, bởi
các hình thức này chỉ do các chủ thể pháp luật tự giác thực hiện mà không có sự bắt buộc thực hiện của Nhà nước.
ADPL có những đặc điểm sau:
Một là, ADPL chỉ do những cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành. Pháp luật quy định cho mỗi loại cơ quan Nhà nước được quyền áp dụng một số loại văn bản pháp luật nhất định trong những trường hợp nhất định. Chẳng hạn, chỉ có cơ quan Toà án mới được ADPL tố tụng dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình để tiến hành giải quyết cho ly hôn, hoặc không cho ly hôn. Cơ quan Công an, UBND các cấp không có thẩm quyền ban hành quyết định ly hôn. Hoặc chỉ có các cơ quan Công an, Viện kiểm sát và Toà án mới được ADPL hình sự để điều tra, truy tố và xét xử người phạm tội. Còn UBND các cấp không được hình sự.
Hai là, ADPL là một hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước, thể hiện: Cơ quan ADPL áp dụng theo ý chí đơn phương mà không phụ thuộc vào ý chí của bên bị áp dụng. Việc thực hiện các quy định trong văn bản ADPL được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước. Ví dụ: Trong vụ án Hôn nhân và gia đình có tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng, Toà án áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình, Luật đất đai, Luật dân sự để ra bản án, quyết định chia tài sản chung của vợ chồng mà không phụ thuộc vào sự đồng ý hay không đồng ý của một bên hoặc các bên đương sự.
Ba là, ADPL là một hoạt động tiến hành theo một thủ tục tố tụng rất chặt chẽ. Chẳng hạn, muốn ADPL để giải quyết vụ án Hôn nhân và gia đình hay vụ án Dân sự, Hành chính, Kinh doanh thương mại, Toà án phải tuân thủ chặt chẽ các bước tố tụng dân sự được quy định trong Luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính.
Bốn là, ADPL là một hoạt động sáng tạo. Nghĩa là, trong khuôn khổ của pháp luật cho phép người ADPL phải vận dụng tri thức khoa học pháp lý, khoa học xã hội của mình để ADPL sáng tạo mà không rập khuôn, máy móc.
ADPL thường được thực hiện trong các trường hợp sau:
Thứ nhất là khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế bằng một chế tài thích hợp đối với những chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật. Chẳng hạn, khi cần cưỡng chế một hình phạt tù đối với kẻ thực hiện hành vi phạm tội thì các cơ quan bảo vệ pháp luật như Công an, Viện kiểm sát, Toà án đã dựa trên cơ sở pháp luật hình sự để tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, ra bản án, ấn định trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội và buộc họ phải chấp hành hình phạt đã tuyên trong bản án.
Thứ hai là khi những quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể không mặc nhiên phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt nếu thiếu sự can thiệp của Nhà nước. Chẳng hạn, Hiến pháp năm 1992 quy định: “Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân” [27, Điều 55], nhưng quyền và nghĩa vụ đó chỉ phát sinh khi có quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức, cá nhân được Nhà nước trao quyền tuyển dụng công dân đó vào làm việc.
Thứ ba là khi xảy ra tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên tham gia quan hệ pháp luật (QHPL) mà các bên không tự giải quyết được. Chẳng hạn, khi phát sinh tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong hợp đồng dân sự mà hai bên không bàn bạc giải quyết được nên phải nhờ đến Toà án và Toà án căn cứ vào các quy định của pháp luật ra một bản án xác định các quyền và nghĩa vụ giữa các bên.
Thứ tư là trong một số quan hệ pháp luật mà Nhà nước thấy cần thiết phải tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên tham gia vào quan hệ đó hoặc Nhà nước xác nhận sự tồn tại hay không tồn tại một số sự việc, sự kiện thực tế. Ví dụ: việc xác nhận di chúc, chứng thực thế chấp, chứng nhận đăng ký kết hôn…
Từ những sự phân tích trên, có thể đưa ra một khái niệm: ADPL là một hoạt động mang tính tổ chức, tính quyền lực Nhà nước, trong đó Nhà nước