được bí mật cho các bên tranh chấp. Do đó, giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài quốc tế sẽ bảo đảm được danh dự và uy tín của các bên tranh chấp (đặc biệt là các bên thua kiện)
Bên cạnh những ưu điểm nổi bật nói trên, biện pháp giải quyết tranh chấp quốc tế bằng Trọng tài cũng có điểm hạn chế về cơ chế đảm bảo thực thi, tuân thủ phán quyết của Trọng tài không mạnh như cơ chế thực thi, tuân thủ phán quyết của Tòa án công lý quốc tế. Thực tế cho thấy, việc thực thi, tuân thủ phán quyết của trọng tài quốc tế hoàn toàn tùy thuộc vào sự tận tâm, thiện chí của các bên tranh chấp. Bởi lẽ, trọng tài quốc tế không phải là cơ quan tư pháp của Liên hợp quốc nên Hội đồng bảo an Liên hợp quốc sẽ không thể bảo đảm việc thực thi các phán quyết của Trọng tài quốc tế, đặc biệt là các phán quyết của các Trọng tài Ad Hoc.
2.2.4. Giải quyết tranh chấp tại Tòa Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII Công ước Luật biển 1982
Tòa trọng tài về Luật biển là cơ quan tài phán có chức năng giải quyết tranh chấp quốc tế về biển theo Công ước 1982. Theo đó, bất kỳ bên nào trong vụ tranh chấp cũng có thể đưa vụ tranh chấp ra giải quyết bằng thủ tục trọng tài với một thông báo bằng văn bản gửi cho bên kia hoặc các bên liên quan trong vụ tranh chấp. Thông báo này phải kèm theo bản trình bày các yêu sách và các lý do làm căn cứ cho các yêu sách đó.
2.2.4.1. Thành phần - tổ chức của Tòa trọng tài
Theo quy định tại Điều 3, Phụ lục VII Công ước năm 1982, một Tòa trọng tài được thành lập gồm năm thành viên. Trong đó, bên nguyên đơn sẽ cử một thành viên có tên trong danh sách trọng tài viên và người đó có thể là công dân của mình. Bên bị đơn trong vụ tranh chấp, trong thời hạn 30 ngày, tính từ ngày nhận được thông báo giải quyết tranh chấp bằng trọng tài của bên nguyên đơn cũng có quyền chọn một trọng tài viên, người này có thể là công dân của nước mình.
Nếu bên bị đơn không cử người trong thời hạn nói trên (30 ngày) bên nguyên đơn có thể yêu cầu tiến hành việc cử thành viên đó trong vòng 2 tuần sau khi hết thời hạn 30 ngày.
Ba thành viên còn lại được các bên thỏa thuận cử ra. Họ được các bên tùy ý chọn trên bản danh sách trọng tài viên và là công dân của các quốc gia thứ ba, trừ khi các bên có thỏa thuận khác. Các bên cử Chánh tòa của Tòa trọng tài trong số ba thành viên đó. Nếu trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày nhận được thông báo yêu cầu giải quyết tranh chấp bằng trọng tài của bên nguyên đơn, các bên tranh chấp không thể thỏa thuận về việc chỉ định một hay nhiều thành viên của Tòa mà họ phải cử theo thỏa thuận chung hoặc liên quan đến việc cử Chánh tòa, thì theo yêu cầu của bất kỳ bên nào trong vụ tranh chấp, Chánh án Tòa án quốc tế về Luật biển sẽ thực hiện việc này, trừ khi các bên có thỏa thuận khác. Nếu Chánh án bận hoặc Chánh án là công dân của một trong các bên trong vụ tranh chấp, thì việc cử trọng tài viên sẽ được giao cho thành viên có thâm niên cao nhất của Tòa án quốc tế về Luật biển cử và không phải là công dân của một trong các bên tranh chấp
Các trọng tài viên nói trên phải có quốc tịch khác nhau, không được làm việc cho một bên nào trong vụ tranh chấp, không phải là công dân của một trong các bên tranh chấp, không cư trú thường xuyên trên lãnh thổ của quốc gia tranh chấp [13].
2.2.4.2. Xác lập thẩm quyền của Tòa trọng tài
Có thể bạn quan tâm!
- Biện Pháp Thành Lập Các Ủy Ban Điều Tra Và Ủy Ban Hòa Giải Quốc Tế
- Các Phương Thức Xác Lập Thẩm Quyền Giải Quyết Tranh Chấp Của Tòa Án
- Giải Quyết Tranh Chấp Tại Tòa Án Quốc Tế Về Luật Biển
- Giải Quyết Tranh Chấp Theo Cơ Chế Giải Quyết Tranh Chấp Của Asean
- Các Vụ Việc Giải Quyết Tranh Chấp Quốc Tế Điển Hình
- Philippines Kiện Trung Quốc Về Việc Giải Thích Và Áp Dụng Sai Unclos 1982
Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.
Tuân thủ Điều 287 Công ước 1982, Tòa trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận lựa chọn hoặc trong các trường hợp sau đây:
Thứ nhất, khi một quốc gia thành viên tham gia vào một vụ tranh chấp mà không được một tuyên bố còn hiệu lực bảo vệ thì được xem là đã chấp nhận thủ tục trọng tài (khi gia nhập chưa tuyên bố về việc lựa chọn phương thức, thủ tục giải quyết tranh chấp nào);
Thứ hai, nếu các bên không chấp nhận cùng một thủ tục để giải quyết tranh chấp thì vụ tranh chấp đó sẽ giải quyết theo thủ tục trọng tài. Như vậy, cách thức xác lập thẩm quyền của Tòa trọng tài theo Công ước năm 1982 có điểm khác biệt so với Tòa án quốc tế về Luật biển. Sự khác biệt này thể hiện ở chỗ, các bên đương nhiên được xem là đã lựa chọn Tòa trọng tài nếu thuộc một trong các trường hợp trên. Điều này có nghĩa là, sẽ không có biện pháp nào khác có thể thay thế một Tòa trọng tài được thành lập theo đúng Phụ lục VII Công ước 1982 được áp dụng để giải quyết tranh chấp.
2.2.4.3. Thủ tục tố tụng trọng tài
Thủ tục tố tụng trọng tài được bắt đầu bằng một thông báo bằng văn bản của một bên gửi tới bên kia. Thông báo có kèm theo bản trình bày các yêu sách và các lý do làm căn cứ cho các yêu sách đó.
Trừ khi các bên có thỏa thuận khác, Tòa trọng tài tự quy định thủ tục của mình bằng cách cho mỗi bên có khả năng bảo vệ quyền và căn cứ của mình. Cũng như Tòa án về Luật biển, khi có cơ sở pháp lý để khẳng định thẩm quyền của Tòa trọng tài cũng như đơn kiện có cơ sở thực tế và lý lẽ thi Tòa trọng tài sẽ xử và ra phán quyết.
Khi một bên tranh chấp không ra Tòa hoặc không trình bày các lý lẽ của mình, thì bên kia có yêu cầu Tòa tiếp tục trình tự tố tụng và ra phán quyết. Việc một bên vắng mặt hay không trình bày được lý lẽ của mình không cản trở trình tự tố tụng của Tòa trọng tài.
2.2.4.4. Giá trị phán quyết Tòa trọng tài
Phán quyết của Tòa được thông qua theo đa số các thành viên của Tòa. Sự vắng mặt hoặc bỏ phiếu trắng của dưới nửa số thành viên không cản trở Tòa ra phán quyết (tức là số trọng tài viên có mặt phải hơn nửa số trọng tài của Tòa, tối thiểu là 3/5 trọng tài viên). Trường hợp phiếu thuận và phiếu chống ngang nhau thì phiếu của Chánh tòa có ý nghĩa quyết định.
Phán quyết của Tòa trọng tài có giá trị chung thẩm và không được kháng cáo, trừ khi các bên có thỏa thuận về thủ tục này.
2.2.4.5. Lệ phí của Tòa trọng tài
Trừ khi Tòa trọng tài có quyết định khác, vì có hoàn cảnh đặc biệt của vụ việc, lệ phí của Tòa, kể cả thù lao cho các thành viên của Tòa do các bên tranh chấp chịu ngang nhau.
Cũng như biện pháo giải quyết tranh chấp quốc tế nói chung, giải quyết tranh chấp quốc tế bằng Tòa trọng tài quốc tế có ưu điểm là các bên tranh chấp sẽ chủ động trong việc lựa chọn thành phần trọng tài viên cũng như các quy định có liên quan đến nhiệm vụ và thủ tục xét xử của trọng tài. Trong trường hợp cần thiết, các
bên tranh chấp sẽ dễ dàng trong việc thỏa thuận để sử đổi, bổ sung thể thức làm việc, thành phần của Tòa trọng tài. Như vậy, so với thủ tục tố tụng tại Tòa án quốc tế về Luật biển, thủ tục tố tụng tại Tòa trọng tài Luật biển linh hoạt và mềm dẻo hơn rất nhiều. Chính vì vậy, việc giải quyết vụ tranh chấp sẽ nhanh chóng, kịp thời và do vậy sẽ hạn chế được các yếu tố tác động từ bên ngoài. Mặt khác, giải quyết tranh chấp tại Tòa trọng tài Luật biển sẽ tiết kiệm được thời gian và chi phí cho các bên tranh chấp. Cuối cùng, giải quyết tranh chấp tại Tòa trọng tài biển sẽ bảo đảm được danh dự và uy tín của các bên tranh chấp, nhất là bên thua kiện.
Bên cạnh những ưu điểm nói trên, Tòa trọng tài Luật biển cũng có những hạn chế sau đây:
Mặc dù phán quyết trọng tài có giá trị chung thẩm nhưng cũng giống như Tòa án quốc tế về Luật biển, việc thực thi phán quyết này chủ yếu dựa trên sự thiện chí hợp tác của bên thua kiện. Bởi vì, không có bất kỳ biện pháp bảo đảm thực thi phán quyết nào theo Công ước 1982. Mặt khác, nếu các bên có thỏa thuận về thủ tục kháng cáo trong quy trình giải quyết tranh chấp sẽ làm cho tranh chấp trở nên phức tạp hơn.
Cuối cùng, theo quy định tại Phụ lục VII của Công ước 1982, trọng tài viên được chọn có thể là công dân của các bên tranh chấp, do đó khi giải quyết tranh chấp sẽ rất khó đảm bảo được tính khách quan, vô tư vì trọng tài viên có thể bị chi phối bởi quyền và lợi ích của quốc gia mà họ mang quốc tịch.
2.2.5. Giải quyết tranh chấp tại Tòa trọng tài đặc biệt thành lập theo phụ lục VIII Công ước Luật biển năm 1982
Cũng như Tòa trọng tài Luật biển, Tòa trọng tài đặc biệt là cơ quan tài phán do các bên tranh chấp thỏa thuận thành lập theo Phụ lục VIII Công ước năm 1982. Tòa trọng tài đặc biệt được thành lập ra để điều tra và xác lập các sự kiện từ nguồn gốc của vụ tranh chấp liên quan đến các lĩnh vực đánh bắt hải sản; bảo vệ và gìn giữ môi trường biển và hàng hải, kể cả ô nhiễm do các tàu thuyền hay do nhận chìm.
2.2.5.1. Thành phần - tổ chức của Tòa trọng tài đặc biệt
Thành phần và cơ cấu của Tòa trọng tài đặc biệt về cơ bản giống như Tòa
trọng tài Luật biển. Sự khác biệt giữa hai Tòa này thể hiện ở chỗ, danh sách chuyên viên (Tòa trọng tài gọi là trọng tài viên) của Tòa trọng tài đặc biệt chia thành 4 lĩnh vực sau:
- Danh sách chuyên viên liên quan đến đánh bắt hải Sản sẽ do Tổ chức lương thực và nông nghiệp của Liên hợp quốc (FAO) lập ra và duy trì.
- Danh sách chuyên viên về nghiên cứu khoa học về biển do Ủy ban hải dương học liên chính phủ lập và duy trì;
- Danh sách chuyên viên về hàng hải và ô nhiễm môi trường do tàu thuyền hay do nhận chìm gây ra do Tổ chức hàng hải quốc tế (IMO) hoặc tùy theo mỗi trường hợp, do cơ quan phụ trợ thích hợp mà tổ chức, chương trình hoặc Ủy ban nói trên đã ủy quyền thực hiện chức năng này.
Theo các quy định trong Phụ lục VIII của Công ước 1982, trừ khi các bên có thỏa thuận khác, Tòa trọng tài đặc biệt được cơ cấu như sau:
- Tòa trọng tài đặc biệt gồm 5 thành viên;
- Hai bên tranh chấp, mỗi bên cử 2 thành viên trong các bản danh sách đã được các quốc gia giới thiệu (mỗi quốc gia giới thiệu hai chuyên viên có trình độ chuyên môn cao và liêm khiết trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa trọng tài đặc biệt).
- Chánh tòa trọng tài đặc biệt sẽ do các bên tranh chấp thỏa thuận lựa chọn và phải là công dân của nước thức ba, trừ khi các bên có thỏa thuận khác. Nếu các bên tranh chấp không thỏa thuận cử được Chánh tòa trong thời hạn 30 ngày, thì bên nào cũng có thể yêu cầu một người hay một quốc gia thứ ba do lựa chọn hoặc Tổng thư ký Liên hợp quốc tiến hành việc cử người trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu.
2.2.5.2. Thẩm quyền của Tòa trọng tài đặc biệt
Theo quy định tại Phụ lục VIII công ước 1982, Tòa trọng tài đặc biệt có thẩm quyền tiến hành một cuộc điều tra và xác lập các sự kiện từ nguồn gốc của vụ tranh chấp. Trừ khi các bên có thỏa thuận khác, những sự kiện do Tòa trọng tài đặc biệt xác nhận được coi là những chứng cứ đã được xác minh giữa các bên hữu quan. Nếu tất
cả các bên tranh chấp yêu cầu, Tòa trọng tài đặc biệt có thể ra các khuyến nghị. Các khuyến nghị của Tòa trọng tài đặc biệt không có giá trị quyết định mà chỉ là cơ sở để các bên tiến hành xem xét lại những vấn đề làm phát sinh tranh chấp.
Như vậy, khác với Tòa án quốc tế về Luật biển và Tòa trọng tài Luật biển, Tòa trọng tài đặc biệt nếu được tất cả các bên làm sáng tỏ nguồn gốc của tranh chấp chứ không phải giải quyết tranh chấp bằng cách ra phán quyết có giá trị pháp lý bắt buộc các bên tranh chấp phải tuân thủ, thi hành.
2.2.5.3. Những vấn đề không thuộc phạm vi giải quyết theo phương thức tài phán
Như đã đề cập ở trên, nếu một vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích và thực hiện Công ước 1982 đã được các bên giải quyết bằng thương lượng, hòa giải (mang tính tự nguyện) vẫn không mang lại kết quả thì theo yêu cầu của bất kỳ bên tranh chấp nào vấn đề tranh chấp sẽ được đưa ra giải quyết trước một Tòa án và phán quyết của Tòa án sẽ có giả trị bắt buộc đối với các bên tranh chấp.
Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 287 Công ước 1982 đã quy định những trường hợp đưa ra và không đưa ra giải quyết bằng phương thức bắt buộc (giải quyết trước các cơ quan tài phán được thành lập theo Công ước 1982) cụ thể:
2.2.5.4. Những tranh chấp về nghiên cứu khoa học
Theo điểm a, khoản 2, Điều 297 các vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng các quy định của Công ước 1982 về nghiên cứu khoa học được giải quyết theo Mục 2, trừ khi quốc gia ven biển không chấp nhận cách giải quyết đó với một vụ tranh chấp phát sinh từ:
- Việc thực hiện quyền quyết định của họ cho phép hay không cho phép nước ngoài vào nghiên cứu khoa học ở vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của họ hay;
- Việc quyết định buộc nước ngoài, sau khi được phép vào nghiên cứu khoa học, phải tạm dừng hoặc chấm dứt tiến hành một dự án nghiên cứu theo đúng Điều 253 [42].
2.2.5.5. Những tranh chấp về đánh cá
Theo điểm a, khoản 3, Điều 297 Công ước 1982 đã quy định, các tranh chấp
về đánh cá đều được giải quyết theo phương thức bắt buộc của mục II, Phần XV. Thế nhưng, nước ven biển không bị bắt buộc đưa ra giải quyết theo phương thức này những tranh chấp liên quan đến quyền chủ quyền về tài nguyên sinh vật, trong vùng đặc quyền kinh tế hay việc thực hiện các quyền đó. Các quyền này bao gồm việc xác định khối lượng cho phép đánh bắt và khả năng đánh bắt của nước ven biển, quyền phân phối cá thừa cho các nước ngoài vào đánh bắt và quy định những điều kiện và thể thức về việc đánh bắt đó.
Tuy nhiên, về phương diện pháp lý, theo quy đinh của Công ước 1982, các nước ven biển cũng phải chấp nhận đưa ra hòa giải, khi có yêu cầu hòa giải của nước ngoài trong trường hợp mà nước ven biển:
- Thiếu thực hiện nghĩa vụ trong việc bảo tồn và quản lý làm cho tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế bị tổn hại nghiêm trọng;
- Từ chối một cách độc đoán, không xác định theo yêu cầu của nước ngoài về khối lượng được cho phép đánh bắt và khả năng đánh bắt của nước ven biển;
-Từ chối một cách độc đoán, không cho các nước không có biển và địa lý không thuận lợi vào đánh bắt toàn bộ hay một phần tài nguyên sinh vật thừa theo quy định tại các Điều 62, 69, 70 Công ước 1982 [42].
Ngoài những ngoại lệ ở trên, theo khoản 1, Điều 298 khi ký kết, phê chuẩn, hay gia nhập Công ước, hay bất cứ lúc nào, một nước có quyền tuyên bố không chấp nhận một hay nhiều phương thức giải quyết bắt buộc tại mục 2, Phần XV về giải quyết tranh chấp để giải quyết các tranh chấp liên quan đến chủ quyền quốc gia như: phần định các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia khi hai nước có bờ biển của nước ven biển, hoặc việc đi lại của tàu ngầm, tàu nguyên tử, tàu chở chất phóng xạ, năng lượng hạt nhân trên vùng lãnh hải nước ven biển… Cụ thể, không bắt buộc đối với việc áp dụng mục 2, Phần XV về giải quyết tranh chấp liên quan đến:
- Giải thích hay áp dụng Công ước liên quan đến việc hoạch định ranh giới các vùng biển hay các vụ tranh chấp về vịnh, vùng nước lịch sử;
- Các hoạt động quân sự, kể cả các hoạt động quân sự của tàu thuyền và phương tiện bay của nhà nước sử dụng cho một dịch vụ phi thương mại, và tranh
chấp liên quan đến các hành động bắt buộc chấp hành, và đã được thực hiện trong việc thi hành các quyền thuộc chủ quyền hoặc quyền tài phán mà khoản 2 và 3, Điều 297 đã loại trừ khỏi quyền của một Tòa án;
- Các tranh chấp mà Hội đông bảo an Liên hợp quốc có tránh nhiệm giải quyết, trừ khi Hội đồng bảo an quyết định xóa vấn đề tranh chấp đó trong chương trình nghị sự của mình hoặc yêu cầu các bên tranh chấp giải quyết bằng các biện pháp đã quy định trong Công ước. Thực chất đây là những tranh chấp liên quan đến giải thích và áp dụng Luật biển có khả năng đe dọa đến hòa bình và an ninh quốc tế. Mặc dù Công ước 1982 rất ít, chủ yếu liên quan đến việc thực hiện quyền chủ quyền của quốc gia ven biển đối với các hoạt động kinh tế biển trong vùng đặc quyền kinh tế.
2.3. Giải quyết tranh chấp tại các tổ chức quốc tế
Khoản 1 Điều 33 quy định việc giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình thông qua các tổ chức quốc tế khu vực hoặc bằng cách dàn xếp, các thỏa thuận, hiệp định mang tính chất khu vực được coi là một trong các hình thức giải quyết do Liên Hợp quốc kiến nghị với các nước thành viên
Điều lệ thành lập các tổ chức quốc tế đều quy định việc sử dụng các biện pháp hòa bình để giải quyết các tranh chấp quốc tế là điều kiện bắt buộc cho các thành viên khi tham gia vào các tổ chức đó ví dụ như:
- Tổ chức thống nhất Châu Phi (OAU-1963) coi việc giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên bằng biện pháp đàm phán, trung gian, hòa giải và trọng tài là một nguyên tắc bắt buộc của tổ chức này. Hiến chương của OAU có quy định về môi giới, trung gian, hòa giải và trọng tài nhằm can thiệp kịp thời những tranh chấp trong khu vực. Các cơ quan chính của OAU như Hội đồng thường trực, Hội nghị tư vấn các Bộ trưởng ngoại giao, Hội nghị thường kỳ những người đứng đầu quốc gia, chính phủ đóng vai trò quyết định trong việc giải quyết các tranh chaaos giữa các nước đặc biệt là các tranh chấp về biên giới và lãnh thổ quốc gia
- Hiến chương liên minh các nước Arập 1945 quy định Hội đồng liên minh có chức năng hòa giải các tranh chấp giữa các nước thành viên. Hội đồng liên minh