Các Vụ Việc Giải Quyết Tranh Chấp Quốc Tế Điển Hình

trên nhằm giúp các quốc gia giải quyết tranh chấp nhằm loại trừ nguy cơ đe dọa hòa bình và an ninh quốc tế. Thế nhưng, Hội đồng bảo an Liên hợp quốc không có thẩm quyền xét xử những vấn đề thuộc nội bộ của các quốc gia và ngược lại, các quốc gia cũng không bị bắt buộc đưa ra các vấn đề thuộc nội bộ của quốc gia giải quyết trước Hội đồng bảo an.

Đối với Tổng thư ký Liên hợp quốc, là viên chức cao cấp nhất của Liên hợp quốc, Tổng thư ký hoạt động với tư cách đó trong tất cả các cuộc họp của Đại hội đồng, của Hội đồng bảo an, Hội đồng kinh tế - xã hội và của Hội đồng quản thác lãnh thổ.

Trong khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình Tổng thư ký có thể lưu ý với Hội đồng bảo an Liên hợp quốc đến mọi việc, theo ý kiến mình có thể đe dọa việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế.

Trên thực tế, Tổng thư ký Liên hợp quốc có thể tham gia vào tiến trình giải quyết tranh chấp với tư cách đại diện, thay mặt Liên hợp quốc làm trung gian hòa giải trong việc giải quyết tranh chấp quốc tế. Ví dụ, năm 1964, Tổng thư ký Liên hợp quốc người Myanma ông U Than đã làm trung gian hòa giải thành công cho vụ tranh chấp hạt nhân giữa Mỹ và Liên Xô, kết quả là Liên Xô chấp nhận rút tên lửa có mang đầu đạn hạt nhân ra khỏi Cuba và Mỹ cam kết rút tên lửa của Mỹ ra khỏi Thổ Nhĩ Kỳ. Tổng thư ký Liên hợp quốc hiện nay, đại diện cho Liên hợp quốc, là một trong “bộ tứ” đóng vai trò trung gian, bảo trợ cho tiến trình hòa bình Trung Đông gồm Liên hợp quốc, Liên minh châu Âu-EU, Mỹ và Liên Bang Nga.

Chương 3

THỰC TIẾN ÁP DỤNG ĐIỀU 33 HIẾN CHƯƠNG LIÊN HỢP QUỐC TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ HIỆN NAY

3.1. Các vụ việc giải quyết tranh chấp quốc tế điển hình

3.1.1. Giải quyết tranh chấp giữa Việt Nam và Thái Lan

Vịnh Thái Lan là một biển nửa kín, với diện tích khoảng 300.000 km2, giới hạn bởi bờ biển của bốn nước Thái Lan, Việt Nam, Malaysia và Campuchia. Vịnh thông ra biển Đông ở phía Nam bằng một cửa duy nhất hợp bởi mũi Cà Mau và mũi Trenggranu cách nhau chừng 400 km (215 hải lý). Vịnh khá dài khoảng 450 hải lý nhưng có diện tích nhỏ, chiều rộng trung bình là 385 km (208 hải lý). Do đó, căn cứ vào các quy định mới UNCLOS 1982, toàn bộ Vịnh là đối tượng của các yêu sách mở rộng quyền tài phán của các quốc gia ven biển ra tới hạn 200 hải lý. Thái Lan và Việt Nam là hai nước có bờ biển đối diện, cùng có quyền mở rộng vùng biển của

mình, do đó đã tạo ra một vùng chồng lấn rộng khoảng 6.074 km2 [9].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

Ngày 18/5/1973, Thái Lan đơn phương vạch ranh giới ngoài của thềm lục địa Thái Lan trong Vịnh và công bố các tọa độ của con đường này. Ranh giới này là đường trung tuyến giữa một bên là các đảo quan trọng của Thái Lan như Ko Phangun, Ko Samui và bờ biển Thái Lan... và bên kia là các đảo quan trọng và bờ biển của các quốc gia liên quan như đảo Rong, Xalem của Campuchia, Phú Quốc, mũi Cà Mau của Việt Nam. Đây là yêu sách tối đa của Thái Lan, khai thác việc xác định các "hoàn cảnh đặc biệt" theo Điều 6 của Công ước Giơnevơ năm 1958 về thềm lục địa mà Thái Lan là một bên phê chuẩn. Để vạch ranh giới này, Thái Lan đã bỏ qua các đảo xa bờ như đá Ko Kra, Ko Losin của Thái Lan, đảo Poulo Wai của Campuchia và quần đảo Thổ Chu của Việt Nam.

Đường yêu sách do chính quyền Việt Nam cộng hoà vào năm 1971 được coi là đường trung tuyến được vạch giữa một bên là Hòn Khoai, Thổ Chu và Poulo Wai và bên kia là bờ biển Thái Lan và đảo Ko Phangun, không tính đến các đảo đá nhỏ Ko Kra và Ko Losin của Thái Lan. Sở dĩ các bên có yêu sách khác nhau là do lập trường có tính đến vị trí của các đảo, quần đảo Thổ Chu nằm cách đảo Phú Quốc 55

Áp dụng Điều 33 của Hiến chương Liên hợp quốc nhằm giải quyết hòa bình tranh chấp quốc tế hiện nay - 9

hải lý trong khi các đá Ko Kra và Ko Losin của Thái Lan nằm cách bờ biển Thái Lan 26 và 37 hải lý tương ứng. Đảo xa bờ tuỳ theo vị thế của nó đều có hiệu lực trong phân định ranh giới biển giữa hai nước có bờ biển đối diện [9].

Việt Nam và Thái Lan đã quy định phạm vi thềm lục địa của mình và hình thành nên vùng chồng lấn khoảng 6.000 km2 giữa hai nước. Vùng biển chồng lấn là vùng có nhiều tài nguyên thiên nhiên. Sau nhiều năm đàm phán, thương lượng, tháng 8/1997, hai nước đã ký hiệp định vạch đường biên giới vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai bên theo một đường dài 137 km. Hiệp định giữa Chính

phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ Vương quốc Thái Lan về phân định ranh giới trên biển giữa hai nước trong vịnh Thái Lan ký ngày 9/8/chấm dứt 1/4 thế kỷ tranh cãi về việc giải thích và áp dụng luật biển trong phân định vùng chồng lấn có liên quan giữa hai nước. Nội dung chủ yếu của Hiệp định này như sau:

- Đường phân định là đường thẳng C-K, là đường ranh giới phân định thềm lục địa và đồng thời là ranh giới vùng đặc quyền kinh tế giữa Việt Nam và Thái Lan.

- Trong trường hợp có cấu trúc dầu khí hoặc mỏ khoáng sản nằm vắt ngang đường ranh giới thì hai bên có trách nhiệm trao đổi thông tin, cùng thỏa thuận để khai thác các cấu trúc hoặc mỏ này một cách có hiệu quả và phân chia lợi ích công bằng. Hai bên cũng cam kết sẽ đàm phán với Malaysia về vùng chồng lấn có liên quan giữa ba bên.

Đây là hiệp định phân định biển đầu tiên trong vịnh Thái Lan được ký kết, là hiệp định phân định toàn diện, tổng thể đầu tiên được ký kết tại khu vực Đông Nam Á sau khi Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982 có hiệu lực.

Cùng với việc ký kết hiệp định này, hai bên còn đạt được thỏa thuận về hợp tác an ninh trên biển và bảo vệ nguồn tài nguyên sinh vật trong vịnh thông qua việc tổ chức tuần tra chung giữa hải quân Thái Lan và lực lượng cảnh sát biển Việt Nam. Hiệp định này có hiệu lực kể từ ngày 27/2/1998.

3.1.2. Vụ eo biển Corfu (Vương quốc Anh/Anbani)

Ngày 13/11/1946, hải quân Anh xâm nhập vào lãnh hải Anbani, tiến hành rà phá mìn trong eo biển. Hai mươi hai quản mìn kiểu GY của Đức đã được vớt lên. Sự kiện này đã gây nên căng thẳng trong quan hệ hai nước và được đưa vào chương

trình nghị sự của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc mà Anh là một trong các ủy viên thường trực. Căn cứ điều 32 của Hiến chương Liên hợp quốc, Hội đồng Bảo an đã mời Anbani, nước lúc đó chưa là thành viên của Liên hợp quốc tham dự các cuộc họp của Hội đồng Bảo an về vấn đề này. Anbani chấp nhận, trong khuôn khổ tranh chấp, mọi nghĩa vụ như là thành viên của tổ chức. Ngày 9/4/1947, Hội đồng Bảo an ra Nghị quyết “Khuyến nghị các Chính phủ Vương quốc Anh và Anbani đệ trình ngay lập tức tranh chấp này tới Tòa án công lý quốc tế, phù hợp với các quy định của Quy chế Tòa”. Ngày 22/5/1947, Vương quốc Anh đã khởi kiện Tòa bằng một đơn khởi kiện (Application) riêng biệt [7].

Phía Anh đã không tôn trọng Nghị quyết của Hội đồng Bảo an bằng cách đơn phương hành động. Đối với Anbani chỉ có một thỏa thuận thỉnh cầu cùng chấp nhận đưa tranh chấp ra Tòa (Special agreement) giữa hai quốc gia mới tạo nên thẩm quyền cho Tòa án: “Chính phủ Anbani không bị ràng buộc bởi bất kỳ hiệp ước hay công ước nào buộc cùng Chính phủ Vương quốc Anh đưa vụ tranh chấp ra trước Tòa, có nghĩa là, phù hợp với các quy định của Quy chế Tòa án công lý quốc tế, chỉ hai bên tranh chấp mới có thể làm điều đó một cách có giá trị”.

Để xem xét thẩm quyền của mình, Tòa án Công lý quốc tế mở phiên tòa và mời Anbani, nước không có thẩm quyền mang quốc tịch Anbani tại Tòa, cử một thẩm phán adhoc, theo quy định của điều 31 khoản 2 Quy chế của Tòa án công lý quốc tế.

Tòa cho rằng các phản kháng của Anbani có tính lẫn lộn, Anbani định phê phán về tính vi phạm hình thức hay ngược lại nước này muốn phản bác nguyên tắc thẩm quyền bắt buộc của Tòa? Phía Vương quốc Anh cố tìm kiếm mối liên hệ ràng buộc giữa cơ chế đơn phương kiện Tòa và các trường hợp chấp nhận thẩm quyền bắt buộc. Tòa nhận thấy không cần thiết phải tìm hiểu xem liệu đây có phải là trường hợp chấp nhận trước thẩm quyền bắt buộc của Tòa hay không. Trên thực tế, bức thư ngày 2/7/1947 của Anbani đã chấp nhận thẩm quyền bắt buộc của Tòa và qua đó đã loại bỏ mọi khó khăn nảy sinh.

Tòa cho rằng, bức thư này trước hết đã loại bỏ mọi sự vi phạm hình thức bằng câu “mặc dù sự bất hợp pháp trong hành động của Vương quốc Anh...”Bức thư này còn là sự chấp nhận về hình thức thẩm quyền của Tòa. Đối với Tòa, thỏa

thuận là quan trọng chứ không phải là hình thức thể hiện nó. Ngoài ra, điều 31 khoản 2 Quy chế Tòa án Công lý quốc tế không xác lập bất kỳ mối liên hệ nào giữa quá trình đưa đơn khởi kiện đơn phương và thẩm quyền bắt buộc. Anbani không thể cùng lúc chứng minh hành động của Vương quốc Anh là bất hợp pháp để bác bỏ thẩm quyền của Tòa. Thủ tục mà qua đó, Tòa ràng buộc là phù hợp với thực tế, trong đó có một bên nguyên đơn và một bên bị đơn. Nếu Nghị quyết của Hội đồng Bảo an đề nghị hành động của hai quốc gia trong việc giải quyết tranh chấp (đệ trình ngay lập tức tranh chấp này tới Tòa án công lý quốc tế) thì không có nghĩa hành động đó nhất thiết phải được hai nước cùng thực hiện. Tòa không thấy có gì bất hợp pháp qua phương thức mà Anh đã hành động vì phương thức này không bị bất kỳ một quy định nào, một văn kiện nào loại bỏ. Hành động của Anh do đó không đáng bị phê phán.

Phán quyết ngày 9/4/1949

Tòa đưa ra phán quyết xem xét thẩm quyền của Tòa, Chính phủ Anh và Anbani cùng đệ trình lên Tòa thỏa thuận thỉnh cầu như sau:

Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Anbani và Chính phủ Vương quốc Anh và Bắc Ailen “Nhất trí bằng thỏa thuận thỉnh cầu này, được lập theo Nghị quyết của Hội đồng Bảo an ngày 9/4/1947, đệ trình lên Tòa án Công lý quốc tế nhằm có được phán quyết về các câu hỏi sau:

1. Anbani có chịu trách nhiệm, theo luật quốc tế, đối với các vụ nổ xảy ra vào ngày 22/10/1946 trong các vùng nước của Anbani và đối với các thiệt hại vật chất và nhân mạng do các vụ nổ nói trên không, và liệu có sự bồi thường thiệt hại hay không?

2. Vương quốc Anh có vi phạm, theo luật quốc tế, chủ quyền của nước Cộng hòa nhân dân Anbani bằng hành động của lực lượng hải quân hoàng gia Anh trong các vùng nước Anbani vào các ngày 22/10/1946 và 12.13/11/1946 hay không và liệu có sự xin lỗi hay không?

Thỏa thuận thỉnh cầu này đã chính thức tạo lập thẩm quyền cho Tòa và thể hiện rò ràng các câu hỏi mà Tòa án Công lý quốc tế cần phải tuyên án.

Lập luận của Vương quốc Anh gồm 11 điểm, tập trung vào việc chứng minh

Anbani đã vi phạm các nghĩa vụ quốc tế mà các quốc gia phải có trách nhiệm: 1) Vương quốc Anh cho rằng bãi mìn trong eo biển là do Anbani đặt hoặc được biết trước; 2) Việc Anbani không thông báo, phù hợp với Công ước Lahay (1907), về mối nguy hiểm này là sự vi phạm quyền được qua lại không gây hại.

Vương quốc Anh đề nghị Tòa phán xử cho họ được hưởng bồi thường tương xứng với các thiệt hại phải gánh chịu do lỗi của Anbani.

Về điểm thứ nhất trong lập luận của Anh: chứng cứ về việc có sự tham gia của Anbani trong việc đặt mìn là không có vì vậy nước này không phải chịu trách nhiệm gì, hơn nữa, theo họ, trong thỏa thuận thỉnh cầu Tòa không quy định thẩm quyền của Tòa quyết nghị về việc ấn định mức thiệt hại.

Về điểm thứ hai trong lập luận của Anh, Anbani cho rằng quốc gia ven biển trong những trường hợp cần thiết, điều chỉnh quyền qua lại của tàu quân sự nước ngoài. Các tàu chiến Anh đã đi qua lãnh hải Anbani mà không có sự đồng ý của nước này, Đây chính là sự vi phạm luật quốc tế. Hơn nữa, đây không phải là sự qua lại không gây hại, việc rà phá mìn trong lãnh hải của Anbani mà không có sự đồng ý trước của quốc gia này đã vi phạm thô bạo chủ quyền của Anbani.

Dựa trên các tài liệu thu thập được, Tòa án Công lý quốc tế đã đi đến kết luận một số phần mìn mà tàu chiến Anh vấp phảu thuộc bãi mìn đã được phát hiện và vớt ngay sau đó, và một phần khác thuộc bãi mìn mới được đặt. Trong các điều kiện như vậy liệu Anbani có phải chịu trách nhiệm về việc đặt mìn hay không? Vương quốc Anh đã không đưa ra được một bằng chứng nào về việc thực hiện đặt mìn của Anbani. Phía Anh đưa một người làm chứng là người Nam Tư nói rằng việc đặt mìn có sự đồng ý của Anbani. Mặc dù vậy, Tòa cho rằng bằng chứng đưa ra không phải là không thể phủ nhận. Như vậy bên chủ mưu đặt mìn không được xác định và khi đó liệu Anbani có phải chịu trách nhiệm về các sự kiện diễn ra sau đó không?

Việc một hành động bất hợp pháp được thực hiện trên lãnh thổ Anbani không nhất thiết hàm ý trách nhiệm của quốc gia đó. Vương quốc Anh đã không đưa ra được các bằng chứng trực tiếp về việc liên quan của Anbani trong vụ việc

này nhưng bên nguyên đơn có thể phát triển các bằng chứng gián tiếp. Tòa đã xem xét thái độ của Anbani trong một chuỗi các sự kiện: yêu cầu phải có sự cho phép mới được đi qua lãnh hải, các công hàm ngoại giao sử dụng lời lẽ gay gắt, sử dụng pháo binh ngăn cản...Thái độ này cho thấy việc đặt các bãi mìn này không phải vô cớ và có sự chấp thuận của Anbani. Hơn nữa, hình dạng bờ biển, thời gian cần thiết để triển khai đặt mìn, hệ thống quan sát của Anbani và việc đặt lại mìn mới ngay tại nơi xảy ra sự cố cho phép suy luận rằng một việc đặt trộm mìn là không thể. Các bằng chứng này đã gián tiếp chứng minh việc Anbani biết trước sự tồn tại của bãi mìn. Vậy trong trường hợp này Anbani sẽ phải có trách nhiệm? Anbani, quốc gia ven biển phải có nghĩa vụ thông báo về sự hiện diện của bãi mìn hay ít nhất cũng phải báo động cho các tàu chiến của Anh đang đi đến gần nơi nguy hiểm. Tòa cho rằng khác với kết luận của Vương quốc Anh, cơ sở của nghĩa vụ này không nằm trong Công ước Lahay VIII chỉ có giá trị áp dụng trong thời gian chiến tranh. Nghĩa vụ này xuất phát từ “các nguyên tắc chung và đã được thừa nhận rộng rãi như các khía cạnh cơ bản của luật nhân đạo, áp dụng tuyệt đối trong cả thời gian hòa bình cũng như trong thời gian chiến tranh, từ nguyên tắc tự do thông thương hàng hải và nghĩa vụ, đối với tất cả các quốc gia, không cho phép sử dụng lãnh thổ của mình nhằm các mục đích hành động trái với các quyền lợi của quốc gia khác.”

Sau khi giải quyết xong câu hỏi 1 mà các bên đưa ra trong thỏa thuận thỉnh cầu, Tòa tập trung vào việc xem xét câu hỏi 2 là liệu việc qua lại và rà phá mìn của phía Anh trongn eo biển Corfou có vi phạm chủ quyền của Anbani không và liệu phía Anh có cần phải xin lỗi về các hành vi đó không.

Anbani cho rằng eo biển Corfou không phải nằm trên một đường hàng hải quốc tế, nơi các tàu thuyền có quyền qua lại trong thời kỳ hòa bình. Eo biển chỉ là một đường qua lại có tính khu vực và mang tính lựa chọn đối với các nhà hàng hải. Eo biển nằm hoàn toàn trong vùng lãnh hải của Anbani vì vậy việc đi qua của tàu thuyền nước ngoài phải được sự đồng ý trước của quốc gia ven eo biển đối với việc qua lại eo biển là đi ngược lại nguyên tắc chung của phap luật quốc tế đã được thừa nhận rộng rãi rằng các quốc gia trong thời gian hòa bình có quyền cử các tàu chiến

của mình đi qua các eo biển phục vụ cho hàng hải quốc tế nằm giữa hai phần của biển cả mà không cần sự đồng ý trước của quốc gia ven eo biển, miễn là việc đi qua không gây hại. Trừ phi có những quy định khác trong công ước quốc tế, quốc gia ven eo biển không có quyền cầm đoán việc đi qua không gây hại trong thời bình.

Chính phủ Anbani không phản đối Corfou là một eo biển theo đúng nghĩa địa lý nhưng họ phủ nhận eo biển này thuộc loại các đường hàng hải quốc tế có tồn tại quyền qua lịa không gây hại bởi eo biển không tạo thành một tuyến đường nhất thiết phải đi qua giữa hai phần của biển cả. Đây chỉ là một tuyến đường khu vực đi từ cảng Corfou tới cảng Saranda với số lượng tàu thuyền qua lại không nhiều. Tòa đã căn cứ vào tiêu chí địa lý để xem xét.

Tòa cũng không đồng ý với lập luận của Anh rằng chiến dịch rà mìn của tàu chiến Anh tại eo biển Corfou trong các ngày 12 và 13/11/1946 như một trong các biện pháp tự bảo vệ hay tự giúp mình vì giữa các quốc gia độc lập, có chủ quyền, việc tôn trọng chủ quyền quốc gia là nền tảng chủ chốt cho mọi mối quan hệ quốc tế. Tòa thừa nhận rằng Chính phủ Anbani đã không thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình sau khi xảy ra vụ nổ và các công hàm ngoại giao đã làm trầm trọng thêm hoàn cảnh dẫn tới hành động đơn phương này của phía Anh. Nhưng, nhằm bảo đảm sự tôn trọng luật pháp quốc tế mà Tòa án công lý quốc tế là một thành viên có trách nhiệm,Tòa tuyên bố hành động mà Hải quân Anh triển khai đã vi phạm chủ quyền của Anbani. Tuyên bố này hoàn toàn phù hợp với yêu cầu mà phía Anbani đưa ra và tự nó đã tạo thành hình thức thỏa mãn thích đáng yêu cầu của Anbani.

Kết luận của Tòa thể hiện ở nội dung sau: Với câu hỏi 1 của Thỏa thuận thỉnh cầu ngày 25/3/1948, bằng 11/5 số phiếu kết luận rằng nước Cộng hòa nhân dân Anbani phải chịu trách nhiệm, theo luật pháp quốc tế, về các vụ nổ diễn ra vào ngày 22/10/1946 trong các vùng nước Anbani và về các thiệt hại vật chất cũng như các tổn hại nhân mạng do các vụ nổ đó.

Bằng 10/6 số phiếu, bảo lưu xem xét tiếp việc đánh giá mức độ thiệt hại và ấn định luôn thủ tục cho phiên tòa tiếp theo về vấn đề này.

Xem tất cả 113 trang.

Ngày đăng: 26/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí