cá nhân, pháp nhân, tổ chức quốc tế không có quyền khởi kiện trước Tòa án. Thế nhưng, khi các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, pháp nhân bị xâm phạm bởi các hành động của các quốc gia khác thì quốc gia mà công dân, pháp nhân đó mang quốc tịch có thể thay mặt công dân, pháp nhân của mình, sử dụng quyền bảo hộ công dân để bảo vệ cho họ. Trong trường hợp này có thể sẽ dẫn đến một tranh chấp pháp lý giữa các quốc gia với nhau, và lúc đó, nếu các quốc gia đồng thuận lựa chọn biện pháp giải quyết tranh chấp trước Tòa án thì Tòa án sẽ có thẩm quyền giải quyết.
* Nguồn luật áp dụng và ngôn ngữ làm việc của Tòa án
Theo Điều 38 Quy chế Tòa án công lý quốc tế, trong quá trình giải quyết tranh chấp, Tòa án sẽ sử dụng tất cả các nguồn của Luật quốc tế (điều ước quốc tế và tập quán quốc tế) để giải quyết. Ngôn ngữ sử dụng trong quá trình giải quyết tranh chấp trước Tòa là tiếng Anh và tiếng Pháp. Tuy nhiên, Tòa án cũng có thể cho phép sử dụng các ngôn ngữ khác theo yêu cầu của các bên tranh chấp.
2.2.1.2. Các phương thức xác lập thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa án
Theo Quy chế Tòa án, các quốc gia muốn đưa một tranh chấp có liên quan ra giải quyết trước Tòa án, trước hết quốc gia này phải tự nguyện chấp nhận thẩm quyền của Tòa án theo hai phương thức sau đây:
a. Phương thức chấp nhận trước thẩm quyền của Tòa án
Theo phương thức này, các quốc gia có thể chấp nhận trước thẩm quyền của Tòa án bằng cách ký kết các điều ước quốc tế có điều khoản quy định về biện pháp giải quyết tranh chấp hoặc điều ước chuyên ngành về giải quyết tranh chấp, có quy định rò: khi có tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực mà điều ước quốc tế đã được ký kết, các bên tranh chấp sẽ đồng thuận chuyển vụ việc ra giải quyết tại Tòa án.
Cho đến nay, đã có hơn 400 điều ước quốc tế có điều khoản xác lập trước thẩm quyền của Tòa án như: Công ước về quyền tác giả ký tại Giơnevơ này 6/9/1952; Công ước châu Âu về giải quyết hòa bình các tranh chấp năm 1957; Công ước Viên 23/5/196 về luật điều ước quốc tế; Công ước La Haye ngày 16/12/1970 về ngăn chặn việc chiến giữ bất hợp pháp tàu bay; Công ước Montréal ngày 23/9/1971 về ngăn chặn những hành động hàng không dân dụng; Công ước khung
về thay đổi khí hậu của Liên hợp quốc ngày 9/5/1992; Công ước về cấm sản xuất, tàng trữ và sử dụng các chất độc hóa học và phá hủy chúng, ký tại Pari ngày 13/1/1993…[8].
Ngoài ra, các quốc gia cũng có thể chấp nhận thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa bằng cách đưa ra tuyên bố đơn phương chấp nhận trước thẩm quyền của Tòa án (hiện nay có 66 quốc gia chấp nhận trước thẩm quyền của Tòa án quốc tế). theo cách chấp nhận này, một tranh chấp quốc tế chỉ có thể được đưa ra giải quyết tại Tòa án nếu các bên tranh chấp quốc tế chỉ có thể được đưa ra giải quyết tại tòa án nếu các bên tranh chấp đều tuyên bố chấp nhận thẩm quyền của Tòa án, Với điều kiện các tuyên bố chấp nhận thẩm quyền của Tòa án phải có nội dung và phạm vi hiệu lực (có nghĩa là khi một quốc gia chấp nhận trước thẩm quyền của Tòa, thì bất kỳ quốc gia nào chấp nhận một nghĩa vụ như vậy đề có quyền khởi kiện chống lại quốc gia đó trước Tòa án).
Có thể bạn quan tâm!
- Áp dụng Điều 33 của Hiến chương Liên hợp quốc nhằm giải quyết hòa bình tranh chấp quốc tế hiện nay - 2
- Vị Trí, Vai Trò Và Ý Nghĩa Của Điều 33 Hiến Chương Liên Hợp Quốc Trong Giải Quyết Các Tranh Chấp Quốc Tế
- Biện Pháp Thành Lập Các Ủy Ban Điều Tra Và Ủy Ban Hòa Giải Quốc Tế
- Giải Quyết Tranh Chấp Tại Tòa Án Quốc Tế Về Luật Biển
- Giải Quyết Tranh Chấp Tại Tòa Trọng Tài Thành Lập Theo Phụ Lục Vii Công Ước Luật Biển 1982
- Giải Quyết Tranh Chấp Theo Cơ Chế Giải Quyết Tranh Chấp Của Asean
Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.
Các quốc gia có quyền lựa chọn thời điểm, nội dung, điều kiện chấp nhận thẩm quyền của Tòa bằng cách gửi cho Tổng thư ký liên hợp quốc một bản tuyên bố về nội dung nói trên, sau đó Tổng thư ký Liên hợp quốc sẽ chuyển cho Chánh án Tòa án.
b. Phương thức chấp nhận thẩm quyền của Tòa án theo từng vụ việc (chấp nhận sau)
Theo phương thức này, sau khi tranh chấp đã phát sinh, các bên tranh chấp sẽ thỏa thuận lựa chọn và chấp nhận thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa án. Trong trường hợp này, các bên tranh chấp sẽ ký một điều ước quốc tế hoặc thỏa thuận quốc tế (thường gọi là thỏa thuận thỉnh cầu) để đồng ý yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết tranh chấp giữa họ với nhau. Thỏa thuận thỉnh cầu này phải chính thức, rò ràng và thực hiện bằng đường ngoại giao.
Nội dung thỏa thuận phải nêu rò đối tượng tranh chấp, các câu hỏi cần giải quyết, phạm vi thẩm quyền giải quyết của Tòa án và phạm vi luật áp dụng để giải quyết.
2.2.1.3. Thủ tục tố tụng trước Tòa án
Quy trình giải quyết tranh chấp trước Tòa án được bắt đầu bằng thủ tục nộp đơn kiện. Vị thế và tư cách pháp lý của các bên tranh chấp trước Tòa án phụ thuộc
vào cách thức chấp nhận thẩm quyền của Tòa án mà các bên tranh chấp đã lựa chọn. Cụ thể, trong trường hợp hai bên tranh chấp đồng thuận đưa vụ tranh chấp ra giải quyết trước Tòa án (trường hợp chấn nhận thẩm quyền của Tòa án theo vụ việc) sẽ không có nguyên đơn và bị đơn trước Tòa, vị thế của các bên tại Tòa án như nhau.
Trường hợp một bên đưa đơn phương tranh chấp ra trước tòa án bằng một đơn kiện thì sẽ có quốc gia là nguyên đơn và quốc gia là bị đơn (những trường hợp chấp nhận trước thẩm quyền của Tòa án). Bởi lẽ, khi các bên đã cam kết chấp nhận trước thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa án trong các điều ước quốc tế hoặc các tuyên bố đơn phương nhưng có hành vi vi phạm các nghĩa vụ pháp lý quốc tế mà họ đã cam kết hoặc gây thiệt hại cho các quốc gia khác thì quốc gia bị vi phạm có quyền khởi kiện quốc gia vi phạm ra Tòa án mà không cần phải thỏa thuận về cơ chế, thẩm quyền giải quyết tranh chấp nữa.
Trong đơn kiện trước Tòa, nguyên đơn phải nêu đầy đủ các nội dung như các bên tranh chấp, đối tượng tranh chấp, phạm vi thẩm quyền giải quyết của Tòa án và phạm vi luật áp dụng.
Trước khi giải quyết vụ việc, để đảm bảo cho tiến trình tố tụng đạt hiệu quả, chính xác, đúng thẩm quyền và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của các bên liên quan, Tòa án sẽ thực hiện một số thủ tục bổ trợ như:
- Tòa án tiến hành xem xét, xác lập thẩm quyền của Tòa án cũng như mói liên hệ giữa Thẩm phán, đặc biệt là Chánh án Tòa án với các quốc gia liên quan để điều chỉnh tư cách điều khiển phiên tòa của Chánh án.
- Quốc gia bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu bác thẩm quyền của Tòa án trong các trường hợp:
+ Điều ước quốc tế hoặc tuyên bố đơn phương chấp nhận thẩm quyền của Tòa án là vô hiệu hoặc không có hiệu lực;
+ Vụ tranh chấp xảy ra trước khi ấn định thẩm quyền của Tòa án;
+ Phạm vi thầm quyền đã bị bảo lưu;
+ Đơn kiện không đúng thủ tục.
Trong trường hợp những lập luận và lý lẽ của bị đơn là có cơ sở pháp lý thì Tòa án không giải quyết vụ tranh chấp nữa, trường hợp ngược lại phiên tòa sẽ tiếp tục.
- Tòa án cũng có thể bác đơn kiện của quốc gia nguyên đơn khi quốc gia đó không có quyền khởi kiện. Cũng như Tòa án trong nước, Tòa án công lý quốc tế cũng có thể áp dụng các biện pháp bảo đảm tạm thời nhằm mục đích ngăn ngừa các bên gây tổn hại đến lợi ích của nhau. Các biến pháp tạm thời thường được Tòa án áp dụng trên thực tế như yêu cầu các bên không phát tán, quốc hữu hóa tài sản; yêu cầu chấm dứt hành động cản trở, phong tỏa, ngưng bắn…
- Hợp nhất các vụ kiện, trong trường hợp nếu một quốc gia khởi kiện nhiều quốc gia khác về cùng một vụ việc thì Tòa án có thể hợp nhất các vụ kiện thành một vụ thống nhất để thuận lợi cho quá trình giải quyết;
- Các bên thứ ba can dự, nếu họ cho rằng vụ việc tranh chấp ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ hoặc liên quan đến giải thích điều ước quốc tế mà quốc gia thứ ba là thành viên. Trong trường hợp này, quốc gia thứ ba có quyền yêu cầu Tòa án cho tham gia vào vụ kiện. Tuy nhiên, bên thứ ba có được tham gia vào vụ kiện hay không hoàn toàn phụ thuộc thẩm quyền của Tòa án.
- Xem xét bổ sung Thẩm phán Ad Hoc. Để đảm bảo tính công bằng trong xét xử, Quy chế của Tòa án có quy định về việc:
Nếu trong thành phần có mặt xét xử có một Thẩm phán có quốc tịch của một bên thì bên kia có thể cử một người theo sự lựa chọn của mình để tham gia vào việc xét xử. Người đó được lựa chọn trong số những người được đưa ra ứng cử theo như đã nêu ở Điều 4 và 5.
Thẩm phán Ad Hoc sẽ được chọn từ một trong những Thẩm phán có tên trong danh sách ứng cử của các quốc gia thành viên Liên hợp quốc để bầu làm thành viên của Tòa án. Các Thẩm phán ad-hoc trong quá trình xét xử có quyền và nghĩa vụ như những Thẩm phán thành viên của Tòa án.
Tòa án có thể tiến hành xét xử theo trình tự đầy đủ hoặc rút gọn. Thủ tục xét xử đầy đủ phải có 15 Thẩm phán, bao gồm cả Thẩm phán Ad Hoc trong trường hợp đặc biệt, phiên xử đầy đủ phải có tối thiểu 9 thẩm phán. Ngoài ra, Tòa án cũng có thể thành lập các Tòa đặc thù (rút gọn trình tự tố tụng) gồm 5 Thẩm phán (Chánh án, Phó Chánh án và 3 Thẩm phán).
Thủ tục xét xử trước Tòa án gồm hai thủ tục cơ bản là thủ tục viết (Written proceedings) và thủ tục nói (Oral proceedings). Theo đó, thử tục viết sẽ được tiến hành thông qua việc bên nguyên đơn sẽ làm và gửi cho Tòa án bản vị vong lục (memorials; mémorandum), là văn bản ngoại giao do Chính phủ hoặc Bộ Ngoại giao bên bị đơn xây dựng để phản bác hoặc chống lại lập luận của bên nguyên đơn. Đòng thời, bên bị đơn sẽ gửi cho Tòa án những câu trả lời hoặc các giấy tờ tài liệu liên quan đến vụ việc nếu cần thiết. Các giấy tờ, tài liệu mà một trong các bên đệ trình theo thủ tục viết phải được gửi cho phía kia một bản photocopy có chứng thực của Tòa án.
Thủ tục nói sẽ được tiến hành bằng việc Tòa án nghe nhân chứng, luật sư, người đại diện của các bên trình bày quan điểm, lập luận của chính mình dưới sự điều hành của Chánh án Tòa án hoặc những người thay thế trong trường hợp đặc biệt. Thủ tục nói được tiến hành công khai, ngôn ngữ trình bày trước Tòa án bằng tiếng Anh hoặc tiếng Pháp.
Khi các bên trình bày xong Tòa án sẽ thảo luận và ra quyết định. Phán quyết của Tòa án được thông qua bằng đa số phiếu của các Thẩm phán có mặt. trong trường hợp số phiếu thuận và phiếu chống nganh nhau thì phiếu của Chánh án hoặc Thẩm phán thay thế Chánh án sẽ có ưu thế hơn. Tòa án cũng có thể tuyên bố kết thúc vụ án mà không đưa ra phán quyết nếu bên nguyên đơn rút đơn kiện hoặc cả hai bên thỏa thuận từ bỏ vụ kiện [8].
2.2.1.4. Giá trị pháp lý của phán quyết của Tòa án
Phán quyết của Tòa án có giá trị chung thẩm và bắt buộc thực hiện đối với các bên tranh chấp. Theo quy định của Hiến chương Liên hợp quốc:
1. Mỗi thành viên Liên hợp quốc cam kết tuân theo phán quyết của Tòa án quốc tế trong mọi vụ tranh chấp mà hội viên ấy là đương sự.
2. Nếu một bên đương sự trong một vụ tranh chấp không thi hành những nghĩa vụ mà họ phải chấp hành theo phán quyết của Tòa án, thì bên kia có thể khiếu nại với Hội đồng bảo an. Hội đồng bảo an nếu thấy cần thiết có thể có kiến nghị hoặc quyết định những biện pháp để làm cho phán quyết này được chấp hành [30].
Về nguyên tắc, phán quyết của Tòa án chỉ có giá trị bắt buộc đối với các bên tranh chấp. Tuy nhiên, nếu phán quyết của Tòa án có giải thích điều ước quốc tế đa phương mà bên thứ ba là thành viên thì phán quyết ấy có hiệu lực đối với bên thứ ba.
Phán quyết của Tòa án sẽ không thể bị các bên tranh chấp kháng cáo, trong trường hợp có sự tranh cãi về ý nghĩa hoặc phạm vi quyết nghị thì Tòa án phải giải thích các vấn đề đó theo yêu cầu của bất kỳ bên nào. Mặc dù vậy, các quốc gia tranh chấp cũng có thể yêu cầu Tòa án xem xét lại quyết nghị của Tòa án (không phải là thủ tục xét xử phúc thẩm) trên cơ sở những tình tiết mới có ảnh hưởng quyết định đến việc giải quyết tranh chấp mà những tình tiết cả Tòa án và các bên tranh chấp đều không biết, với điều kiện tất yếu là việc không biết đó không phải là hậu quả của sự thiếu thận trọng của Tòa hoặc của các bên tranh chấp.
Yêu cầu xem xét lại phán quyết của Tòa cần phải được công bố thời hạn chậm nhất là 6 tháng sau khi phát hiện ra tình tiết mới và không một yêu cầu phúc thẩm nào được xem xét sau 10 năm kể từ ngày Tòa ra quyết nghị.
Cơ chế giải quyết tranh chấp bằng Tòa án công lý quốc tế là một cơ chế giải quyết tranh chấp khá hiệu quả, phán quyết của Tòa án thường đảm bảo tính chính xác, công bằng và khách quan, việc đảm bảo thực thi tuân thủ phán quyết của Tòa án cao hơn các biện pháp giải quyết tranh chấp khác. Bởi lẽ, nếu một bên tranh chấp không tuân thủ phán quyết của Tòa án thì bên kia có quyền yêu cầu Hội đồng bảo an Liên hợp quốc can thiệp.
Tuy nhiên, cơ chế giải quyết tranh chấp trước Tòa án công lý quốc tế cũng bộc lộ một số hạn chế như:
Tòa án xử và tuyên công khai nên không đảm bảo được bí mật cho các bên tranh chấp;
Thời hạn thụ lý hồ sơ, giải quyết vụ án quá dài (có vụ việc 5 năm, 10 năm hoặc lâu hơn) sẽ dẫn đến nguy cơ bất ổn trong quan hệ quốc tế, xung đột, bất đồng giữa các quốc gia sẽ ngày càng gia tăng. Mặt khác, thời gian giải quyết tranh chấp kéo dài sẽ làm cho chi phí của các bên tranh chấp đối với vụ kiện là rất lớn.
Các thẩm phán của Tòa án có thể bị lôi kéo, mua chuộc vì mục đích riêng (đặc biệt là các mục đích chính trị)
Mặt khác, Tòa án chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia nên các chủ thể khác của luật quốc tế không có quyền sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp bằng Tòa án công lý quốc tế. Chính vì vây, số lượng các vụ việc được chuyển đến và được Tòa án giải quyết rất hạn chế.
Bên cạnh đó, cơ chế chấp nhận trước thẩm quyền trước của Tòa án cũng bị hạn chế bởi sự chấp nhận các bảo lưu của các quốc gia. Chính vì vậy, các lĩnh vực mà các quốc gia không muốn từ bỏ sự kiểm soát của mình, các quốc gia thường bảo lưu. Thực tiễn, các quốc gia có thể tuyên bố bảo lưu thẩm quyền xét xử của Tòa án trong các trường hợp sau đây:
- Những vụ việc mà các bên tranh chấp thỏa thuận lựa chọn các biện pháp giải quyết tranh chấp khác.
- Những vụ việc liên quan đến những sự kiện xảy ra vào thời điểm có chiến tranh hay xung đột.
- Những vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án quốc gia.
Cuối cùng, sẽ rất khó và hầu như Tòa án không thể giải quyết được tranh chấp có liên quan đến các quốc gia thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nếu các quốc gia này là quốc gia bị đơn, và nếu có thì phán quyết của Tòa án cũng rất khó được thực hiện. Bởi lẽ, với vị thế chính trị và ảnh hưởng của mình tại Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, trong trường hợp có sự bất lợi cho họ, các quốc gia này sẽ tìm cách trì hoãn hoặc không thực hiện các phán quyết của tòa án hoặc gây cản trở Hội đồng bảo an ra nghị quyết yêu cầu tuân thủ phán quyết của Tòa.
2.2.1.5. Thẩm quyền tư vấn pháp luật của Tòa án công lý quốc tế
Ngoài thẩm quyền xét xử, Tòa án còn có thẩm quyền tư vấn pháp luật theo yêu cầu của cơ quan chính của Liên hợp quốc và các tổ chức chuyên môn được Đại hội đồng cho phép. Thẩm quyền này được quy định tại Hiến chương Liên hợp quốc, cụ thể:
1. Đại hội đồng hay Hội đồng bảo an có thể hỏi ý kiến của Tòa án quốc tế về mọi vấn đề pháp lý. Ý kiến của Tòa án quốc tế không có tính cách rằng buộc Đại hội đồng hay Hội đồng bảo an.
2. Tất cả các cơ quan khác nhau của Liên hợp quốc và các tổ chức chuyên môn, trong một lúc nào đó, được Đại hội đồng cho phép cũng có quyền hỏi ý kiến Tòa án quốc tế về những vế đề pháp lý có thể đặt ra trong phạm vi hoạt động của họ. Ý kiến ấy cũng không rằng buộc các cơ quan và tổ chức ấy [30].
Thủ tục tư vấn được bắt đầu bằng việc Tổng thư ký Liên hợp quốc hoặc các giám đốc hoặc các thư ký của cơ quan yêu cầu tư vấn nộp một văn bản yêu cầu tư vấn gửi đến Ban thư ký Tòa án.
Trong trường hợp khẩn cấp, Tòa án có thể làm những gì được cho là cần thiết để đẩy nhanh tốc độ của quá trình tư vấn. Sau khi nhận được yêu cầu tư vấn, Tòa án sẽ rút ra một danh sách các quốc gia và tổ chức quốc tế có khả năng cung cấp thông tin về những vấn đề đó trước Tòa. Nhìn chung các quốc gia được liệt kê đều là các thành viên của tổ chức yêu cầu ý kiến tư vấn, bao gồm những quốc gia mà Tòa án mở ra trong quá trình giải quyết vụ tranh chấp.
Theo quy định tại Điều 66 Quy chế Tòa án, Thư ký tòa sẽ nhanh chóng thông báo kết luận tư vấn cho tất cả các nước có quyền tham gia vào Tòa. Ngoài ra, Thư ký Tòa cũng sẽ thông báo cho một nước bất kỳ có quyền đến Tòa cũng như một tổ chức quốc tế bất kỳ nào có thể (theo ý kiến của Chánh Tòa án nếu như Tòa án không họp) cung cấp những tin tức về vấn đề cụ thể đó, rằng Tòa án sẵn sàng nhận trong thời hạn Chánh án đã quy định, tất cả những tài liệu văn bản báo cáo có liên quan đến vấn đề, hoặc sẵn sàng nghe những báo cáo bằng lới trong phiên họp công khai được triệu tập nhằm mục đích đó.
Nếu quốc gia có quyền đến Tòa không nhận được thông báo đặc biệt đã được nhắc đến ở khoản 2 của điều này, thì quốc gia đó có thể bày tỏ nguyện vọng được đệ trình bản báo cáo bằng văn bản hoặc được nghe Tòa án thông qua quyết định về vấn đề đó.