Tác Động Của Đô Thị Hoá Đến Sản Xuất Phi Nông Nghiệp


450.000,00


400.000,00


350.000,00


300.000,00


250.000,00


200.000,00


Trướ c ĐTH Sau ĐTH


150.000,00


100.000,00


50.000,00


0,00


Doanh thu


Trồ ng trọt


Chăn nuôi


Thủy sản


Lâm nghiệ p


Sơ đồ 2.3 Tác động của đô thị hoá đến sản xuất nông nghiệp


Nhìn chung, do sự tác động mạnh mẽ của ĐTH nên thu nhập từ sản xuất nông nghiệp của hộ giảm 23,59% (tức 100.694,5 nghìn đồng). Đây là mức giảm tương đối lớn đánh dấu sự thay đổi trong sản xuất nông nghiệp của hộ nông dân.

Sự thay đổi lớn về diện tích đất đai dẫn đến sự thay đổi lớn về nguồn thu từ nông nghiệp. Thu từ trồng trọt giảm 29,92%, thu từ chăn nuôi giảm 1,68%, thu từ lâm nghiệp giảm 22,92% và thu từ thuỷ sản giảm lớn nhất 93,64%. Nguyên nhân dẫn đến việc thu nhập từ thuỷ sản (chủ yếu là nuôi tôm, cá ... ) của các hộ điều tra giảm mạnh chính là bởi việc phần lớn các hộ bị thu đất có


diện tích nuôi tôm, cá đều hẳn chuyển sang vừa kinh doanh dịch vụ vừa trồng rau hay dùng phần tiền đền bù để xây dựng nhà ở.

Tuy nhiên, việc đầu tư chăn nuôi lợn thịt, lợn sữa cũng góp phần tăng thêm thu nhập đáng kể cho hộ. Đây cũng là yếu tố duy nhất chịu ít ảnh hưởng của ĐTH. Phần lớn những hộ mạnh dạn đầu tư vào chăn nuôi lợn là những hộ có thu nhập tương đối ổn định. Có những hộ cũng đã biết kết hợp vừa nấu rượu lấy sản phẩm phụ dùng để chăn nuôi lợn mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Bên cạnh đó, sự bùng nổ của “cơn bão giá” gây ra không ít khó khăn cho người nông dân. Giá xăng, giá dầu tăng đã đẩy cho giá cả của hầu hết các mặt hàng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp tăng. Chính vì vậy, việc đầu tư cho chăn nuôi của các hộ giảm 1,1% so với trước ĐTH. Tuy nhiên, để duy trì sản xuất, các hộ vẫn phải mua giống, thức ăn chăn nuôi với mức giá cao.

Những thay đổi về tình hình trồng trọt, chăn nuôi gia súc, gia cầm và nuôi trồng thuỷ sản là do các nguyên nhân chủ yếu sau:

Một là, các hộ sau khi nhận được tiền đền bù đất đã xây nhà cửa, một số hộ thì bán đất, có hộ thì làm nhà cho sinh viên thuê. Vì vậy mà diện tích đất dành cho trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản không còn nữa.

Hai là, dịch cúm gà đã gây ảnh hưởng khá nghiêm trọng đến đàn gia cầm của các hộ nông dân vì họ đã không còn tự tin đối với sản phẩm sản xuất ra.

Ba là, nhiều con lợn bị ốm do dịch bệnh, nuôi không có lãi nên nhiều hộ sinh ra tâm lý chán nản không muốn nuôi nữa.

Bốn là, do thị trường tiêu thụ sản phẩm chưa được chú trọng rộng rãi nên số lượng sản phẩm sản xuất từ ngành nông nghiệp giảm đi.

Năm là, do sự phát triển của khoa học kĩ thuật, các công cụ sản xuất ngày càng hiện đại thay thế dần sức người và gia súc nên số lượng trâu, bò bị giảm nhiều.


Sáu là, do tác động của ĐTH mà diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp dần, diện tích mặt nước ở thành phố Thái Nguyên vốn đã ít nay lại càng ít. Vì vậy mà số lượng hộ nuôi trồng thuỷ sản giảm đi đáng kể. Ao bị san lấp cũng là nguyên nhân khiến đàn vịt bị giảm đi.

Bảy là, lượng dân cư tăng lên đáng kể trong những năm qua. Trên địa bàn xã có nhiều xí nghiệp, công ty mới được xây dựng nên lượng nước thải ra rất nhiều gây ô nhiễm nước. Vì vậy, lượng cá bị chết rất lớn, nhiều hộ đã bỏ không thả cá nữa.

Tóm lại, do tác động của quá trình ĐTH, số hộ tham gia sản xuất nông nghiệp trên địa bàn thành phố giảm đi đáng kể trong những năm qua.

2.5. Tác động của đô thị hoá đến sản xuất phi nông nghiệp

Do tác động của ĐTH, các nguồn thu nhập của hộ tăng chủ yếu từ các ngành sản xuất khác ngoài nông nghiệp. Các ngành nghề TTCN và KD - DV phát triển mạnh trong những năm gần đây. Đặc biệt là ở một số hộ khá, tổng thu từ nông nghiệp rất ít và hiệu quả sản xuất nông nghiệp không cao nên phát triển nông nghiệp ít được coi trọng. Những ảnh hưởng của ĐTH đối với sản xuất phi nông nghiệp của các hộ điều tra được thể hiện quan Bảng 2.10.


Bảng 2.10 Tác động của đô thị hoá đến sản xuất phi nông nghiệp



Chỉ tiêu

Trước ĐTH

Sau ĐTH

Tăng (+) giảm (-)

Giá trị

(1000đ

Cơ cấu

(%)

Giá trị

(1000đ)

Cơ cấu

(%)

Giá trị

(1000đ)

Cơ cấu

(%)

A. Tổng thu

3.822.268

100

4.904.728

100

1.082.460

28,32

1. Sản xuất TTCN

14.000

0,37

26.500

0,54

12.500

89,29

2. Kinh doanh dịch vụ

793.600

20,76

1.541.200

31,42

747.600

94,20

3. Làm thuê

288.000

7,53

336.000

6,85

48.000

16,67

4. Lương, thưởng

2.312.168

60,49

2.482.128

50,61

169.960

7,35

5. Thu khác

414.500

10,84

518.900

10,58

104.400

25,19

B. Tổng chi

619.990

100

1.109.540

100

489.550

78,96

1. Chi nguyên vật liệu

343.600

55,42

727.600

65,58

384.000

111,76

2. Chi điện, nước

6.640

1,07

21.050

1,90

14.410

217,02

3. Chi thuê nhân công

0

0

3.200

0,29

3.200

#

4. Chi khác

270.550

43,64

358.290

32,29

87.740

32,43

Doanh thu

3.202.278

100

3.795.188

100

592.910

18,52

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.

Ảnh hưởng của xu hướng đô thị hóa đối với kinh tế hộ nông dân trên địa bàn thành phố Thái Nguyên - 10

(Nguồn: Tổng hợp từ phiếu điều tra hộ năm 2007)


Tổng thu của hộ đạt 3.822.286 nghìn đồng trước đô thị hóa, nhưng sau đô thị hoá tổng thu đã đạt 4.904.827 nghìn đồng, tăng 1.082.460.000 đồng (28,32%). Trong cơ cấu của tổng thu, thu từ sản xuất TTCN tăng 89,29%; thu từ kinh doanh dịch vụ tăng 94,20%; thu từ việc đi làm thuê, lương và thu khác tăng tương ứng 16,67%, 7,35%, 25,19%.

Thường thì các hộ khá là những hộ có tiềm lực sản xuất, họ có khả năng đầu tư một lượng vốn lớn vào trong sản xuất kinh doanh hoặc họ là những hộ táo bạo, mạnh dạn dám nghĩ dám làm. Lúc đầu một số hộ không có đủ vốn, họ đã chủ động vay tiền từ quĩ tín dụng, ngân hàng. Sau khi đầu tư đúng hướng họ không những trả hết nợ mà còn mở rộng sản xuất kinh doanh. Loại hình buôn bán, dịch vụ rất phong phú và đa dạng. Còn ở nhóm hộ trung bình thì các loại hình dịch vụ cũng rất đa dạng nhưng ở qui mô nhỏ, không cần vốn


đầu tư quá lớn như: bán hàng tạp hoá, cửa hàng phân bón nhỏ, dịch vụ công nông...

Nhiều hộ khác thì mở cửa hàng ăn, cửa hàng internet, buôn bán nguyên vật liệu xây dựng, đồ điện lạnh... Hoạt động này đòi hỏi một nguồn vốn đầu tư tương đối lớn nên đa phần là các hộ khá kinh doanh. Tổng thu từ KD - DV của hộ tăng 747.600 nghìn đồng tương đương 94,2%.

Ngành TTCN là một bộ phận rất quan trọng trong kinh tế công nghiệp nông thôn và đang phát triển khá mạnh. Một số hộ đã mạnh dạn đầu tư máy móc làm xưởng chế biến sản phẩm từ sắt thép đã thu hút một số lượng lao động trong vùng. Những xưởng sản xuất nhỏ này đã và đang bắt đầu làm ăn có hiệu quả, góp phần tạo thêm thu nhập cho người lao động.

Ngoài ra, nguồn thu của hộ còn từ các khoản lương và trợ cấp, từ tiền đi làm thuê và từ tiền thu khác (cho thuê nhà, đất...).

Nhìn chung, trong quá trình ĐTH, nguồn thu từ phi nông nghiệp của các hộ rất đa dạng và phong phú: KD - DV, TTCN và các nguồn thu khác. Tuy nhiên, đầu vào cho ngành KD - DV và TTCN là khá lớn, còn khi làm thuê hay làm cho các công ty, xí nghiệp thì người lao động không cần đầu tư vốn mà vẫn nhận được một khoản tiền lương hàng tháng. Do đó, rất nhiều lao động đi làm công nhân cho các nhà máy, xí nghiệp hoặc làm thuê cho xưởng TTCN trong khu vực hay làm những công việc tự do: phụ nề, vôi vữa, thợ xây, thợ điện... Vào thời điểm nông nhàn, nhiều người nông dân cũng đi làm thêm để tăng thêm thu nhập cho gia đình. Vì vậy, lương, trợ cấp và làm thuê là một nguồn thu nhập rất quan trọng của hộ nông dân.

2.6. Ảnh hưởng của các nhân tố đến thu nhập của các hộ nông dân

Phát triển kinh tế, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần luôn là mục tiêu phấn đấu của mỗi gia đình trong quá trình đầu tư, phát triển sản xuất. Thu nhập phản ánh kết quả đầu tư sản xuất, là thước đo đánh giá hiệu quả đầu tư


sản xuất của mỗi hộ gia đình. Thu nhập của hộ nông dân chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố bao gồm các nhân tố chủ quan (Tổng số lao động, diện tích đất canh tác...), các nhân tố do đô thị hoá tạo ra và các nhân tố khác.

Hàm tuyến tính tổng quát có dạng: Y = a0 + a1X1 + a2X2 + ....+ anXn

Trong đó: Y: Biến phụ thuộc

ao: Hệ số chặn (tung độ gốc)

X1, X2....Xn: Các biến độc lập

a1, a2....an: Các hệ số của các biến độc lập

Tuy nhiên, khi sử dụng các yếu tố như: thu nhập bình quân/người, diện tích bình quân/người, thu nhập bình quân/hộ, diện tích bình quân/hộ... để phân tích sự ảnh hưởng đến kinh tế hộ nông dân thì thấy được sự ảnh hưởng của các yếu tố này là rất nhỏ. Do vậy, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài nhằm đánh giá sự ảnh hưởng của các nhân tố đến thu nhập hộ nông dân tôi sử dụng 5 biến độc lập (lao động, diện tích, chi phí trồng trọt, chi phí chăn nuôi, chi phí phi nông nghiệp).

* Trước đô thị hoá

Để biết trước đô thị hoá các yếu tố ảnh hưởng như thế nào tới tổng thu của hộ ta phân tích qua mô hình tổng quát như sau:

TNi = a1 + a2i + a3DTi + a4TTi + a5CNi + a6CPi + Ui

Trong đó:

Biến phụ thuộc là: TN - Tổng thu trong năm của hộ (nghìn đồng) ao - Hệ số chặn(tung độ gốc)

a1, a2, a3, a4, a5 - Hệ số của các biến độc lập X1, X2, X3, X4

Biến độc lập: LĐ - Số lao động của hộ (người)

DT - Tổng diện tích đất (m2)

TT - Chi phí trồng trọt (1000 đồng)


CN - Chi phí chăn nuôi (1000 đồng)

CP - Chi phí phi nông nghiệp (1000 đồng) Kết quả chạy hồi quy như sau:


Tên biến

Hệ số

Độ lệch chuẩn

t-Stat

P-value

Hệ số chặn

21910,97

3884,197

5,641056**

1,25E-07

LĐ (lao động)

3091,003

1411,006

2,190637*

0,030513

DT (diện tích)

0,21315

0,604946

0,35235

0,725224

TT (Chi phí trồng trọt)

0,249117

0,967398

0,257513

0,797247

CN (Chi phí chăn nuôi)

1,294793

0,238924

5,419271**

3,38E-07

CP (Chi phí phi nông nghiệp)

1,298163

0,079274

16,37554**

1,01E-31

R2 = 0.730

F= 61.87

n =120

F0.05(5, 114) = 2.71; t0.025(114) = 1.98

** có mức ý nghĩa thống kê trên 99%

* có mức ý nghĩa thống kê trên 95%


Thông qua số liệu trên ta có phương trình mô tả mối quan hệ giữa các biến số trong mô hình như sau:

TNi = 21910,97+ 3091,003LĐi + 0,2131DTi + 0,2491TTi + 1,2947CNi + 1,2981CPi + Ui

Sau khi so sánh ta thấy F>F0.05(5,114). Có thể khẳng định rằng các chỉ tiêu đưa vào mô hình có ý nghĩa thống kê.

Với R2 = 0,730, điều này chứng tỏ rằng trong 100% sự biến động của tổng thu nhập xung quanh giá trị trung bình của nó thì 73,0% sự biến động là do các yếu tố về lao động, đất đai, chi phí trồng trọt, chi phí chăn nuôi và chi phí phi nông nghiệp mang lại. Còn lại là do các nhân tố khác chưa đưa vào mô hình.


Ta thấy t(ai) của diện tích và chi phí trồng trọt nhỏ hơn (<) t0.025(114), nên không có ý nghĩa thống kê. Hay diện tích và chi phí trồng trọt không ảnh hưởng nhiều tới tổng thu của hộ.

Còn t(ai) của lao động, chi phí chăn nuôi và chi phí phi nông nghiệp lớn hơn (>)t0.025(114), nên có ý nghĩa thống kê.

Như vậy, mối quan hệ giữa lao động, chi phí chăn nuôi và chi phí phi

nông nghiệp với tổng thu của hộ được giải thích như sau: Nếu khi các yếu tố khác không đổi:

- Khi hộ tăng lên 1 lao động thì thu nhập tăng lên tương ứng là 3,091 triệu đồng.

- Khi chi phí chăn nuôi tăng lên 1000 đồng thì mức thu nhập của hộ tăng lên tương ứng là 1,2947 nghìn đồng.

- Khi chi phí phi nông nghiệp tăng lên 1000 đồng thì mức thu nhập của hộ tăng lên tương ứng 1,2981 nghìn đồng.

Từ những kết trên cho thấy, trước đô thị hoá nhân tố lao động có ảnh hưởng rất lớn tới tổng thu nhập của hộ nông dân. Do hầu hết các hộ nằm trong khu vực ĐTH đều sản xuất nông nghiệp, nên nguồn lao động của hộ đóng vai trò hết sức quan trọng. Hộ có nhiều lao động sẽ mang lại nguồn thu lớn so với hộ ít lao động. Qua điều tra thực tế, khi sản xuất nông nghiệp ở thời điểm “nông nhàn” thì số lao động tham gia vào làm các ngành nghề phi nông nghiệp là tương đối lớn. Chính vì vậy, nguồn thu của hộ cũng được cải thiện nhiều lên đáng kể.

* Sau đô thị hoá

Xem xét quá trình đô thị hoá có ảnh hưởng tới thu nhập của hộ như thế nào ta tiếp tục sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính để phân tích.

TNi = a1 + a2i + a3DTi + a4TTi + a5CNi + a6CPi + a7ĐTi+ Ui

Xem tất cả 129 trang.

Ngày đăng: 15/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí