Tính Tất Yếu Khách Quan Để Chuyển Kinh Tế Hộ Nông Dân Tự Cung Tự Cấp Sang Sản Xuất Hàng Hoá


của hợp tác xã đã kìm hãm sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp, sản xuất mất động lực nên kinh tế bị trì trệ trong một thời gian dài, đặc biệt là ở các tỉnh Đồng bằng Sông Hồng. Năng suất cây trồng không tăng, năm 1970 ngân sách lúa đạt 20,1 tạ/ha thì năm 1980 đạt 21,79 tạ/ha. Trong 10 năm năng suất tăng 3,4%. Từ năm 1988 khi hộ nông dân được giao quyền sử dụng đất lâu dài, nền kinh tế bắt đầu mở cửa tiếp xúc với cơ chế thị trường, sản xuất hàng hoá của hộ nông dân bắt đầu phát triển.

- Một số nông sản xuất khẩu quan trọng như gạo, cao su, cà phê, chè, v.v... đang hoà nhập và có vị trí đáng kể trên thị trường thế giới.

Như vậy sản xuất hàng hoá đã và đang là động lực mạnh mẽ thúc đẩy các hộ gia đình từng bước chuyển từ sản xuất hàng hoá nhỏ lên sản xuất hàng hoá lớn.

Sự ra đời của sản xuất hàng hoá gắn liền với sự phát triển của phân công lao động xã hội và trao đổi. Một khi sản xuất sản phẩm không phải để bản thân tiêu dùng mà để bán thì sản xuất hàng hoá đó gọi là sản xuất hàng hóa.

Trong sản xuất nông nghiệp, sản phẩm hàng hoá là những sản phẩm sản xuất được bán ra ngoài tỉnh (nếu phạm vi là là tỉnh), ngoại huyện (nếu phạm vi là huyện), ngoài xã (nếu phạm vi là xã), hoặc theo phạm vi hộ là những sản phẩm hộ nông dân bán ra. Hộ nông dân là cơ sở của sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp. Chính vì vậy nghiên cứu hộ nông dân phát triển sản xuất hàng hoá để có thể rút ra những kết luận, đưa ra những giải pháp biện pháp, biện pháp tác động đến sản xuất hàng hoá nói chung.

Sản xuất hàng hoá để tạo điều kiện phát huy tính năng động sáng tạo trong việc khai thác và tận dụng những tiềm năng kinh tế xã hội cũng như lợi thế so sánh của từng vùng kinh tế. Nó có vai trò quan trọng trong việc điều tiết sản xuất, phân công lao động xã hội, điều tiết thị trường.


Đối với nước ta hiện nay nông nghiệp được coi là hàng đầu, có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo ổn định đời sống nhân dân, xuất khẩu thu ngoại tệ... Để đẩy mạnh quá trình phát triển đất nước, Đảng ta đã xác định chỉ có thể thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì nền kinh tế của chúng ta mới không bị tụt hậu, đất nước mới thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Muốn vậy chúng ta phải có vốn đầu tư để trang bị khoa học công nghệ, cả về máy móc thiết bị lẫn con người. Trong khi đó với thực tại là một nước nông nghiệp thì phải xuất phát từ nông nghiệp, xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp lấy vốn đầu tư phát triển các ngành khác. Và vì vậy chỉ có thể phát triển sản xuất hàng hoá thì mới làm cho nông nghiệp phát triển nhanh, mạnh, tạo ra khối lượng nông sản hàng hoá lớn, chất lượng cao cạnh tranh được trên thị trường quốc tế.

Phát triển sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp có tác dụng rất lớn để giải quyết việc làm ở nông thôn, nâng cao trình độ chất lượng lao động sản xuất nông nghiệp.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 160 trang tài liệu này.

1.1.4. Vai trò của kinh tế hộ sản xuất hàng hóa

Vai trò kinh tế hộ nông dân sản xuất hàng hoá trước hết được kể đến từ vai trò của hộ nông dân nói chung, từ đó được mở rộng và tăng thêm khi đã trở thành hộ nông dân sản xuất hàng hoá. Phân tích kết cấu xã hội nông dân nước Nga, Lê nin đã lưu ý rằng hộ khai thác triệt để năng lượng sản xuất để đáp ứng nhu cầu đa dạng của gia đình và xã hội. Lê Nin coi trọng vai trò của kinh tế hộ nông dân thể hiện trong cương lĩnh ruộng đất lần hai bàn về “ chế độ hợp tác”, đặc biệt sau này trong chính sách “ Kinh tế mới” và nhiều tác phẩm khác [9]. Khi tổng kết kinh nghiệm của mô hình trang trại gia đình ở Mỹ, Italia, Anh, Hà Lan, Traianốp đã chứng minh sức sống của “ Kinh tế hộ”, của “ Kinh tế lao động trên mảnh đất gia đình” [13].

Nghiên cứu khả năng phát triển kinh tế hộ nông dân theo hướng sản xuất hàng hoá ở huyện Đồng Hỷ - Thái Nguyên - 5

Các tác giả của nhóm lý thuyết phát triển có cách nhìn về kinh tế hộ, họ đã đưa ra ý kiến về phát triển chiến lược sử dụng các nguồn lực của hộ trong


xã hội nông thôn. Họ cho rằng kinh tế hộ là “hệ thống các nguồn lực”, có nghĩa hộ là đơn vị duy trì, phát triển nguồn lao động, công cụ lao động, tài sản vốn... đảm bảo cho quá trình phát triển nguồn thu nhập là góp phần phát triển nguồn thu nhập của xã hội. Hệ thống các nguồn lực của các hộ được sử dụng theo những phương thức khác nhau, do đó đem lại hiệu quả cao.

Phân tích các quan hệ kinh tế hộ như là một đơn vị kinh tế cơ sở, các kinh tế học. Mác xít cũng như lý thuyết phát triển đều khẳng định hộ có các quan hệ kinh tế bên trong nội bộ hộ và các quan hệ kinh tế với các đơn vị kinh tế khác. Các quan hệ kinh tế nội tại của hộ là quan hệ phân phối nguồn thu nhập, quan hệ đóng góp vào quỹ thu nhập... giữa các thành viên trong hộ. Quan hệ kinh tế của các thành viên trong hộ có tính chất ước định, nó còn phải chịu sự chi phối của các quan hệ huyết tộc, quan hệ gia đình, tôn giáo...Quan hệ kinh tế bên ngoài của hộ là quan hệ trao đổi sản phẩm hàng hoá giữa các hộ và các kiểu tổ chức doanh nghiệp khác. Những quan hệ kinh tế này chịu sự chi phối của các quan hệ thị trường [10].

Ở Việt Nam, trải qua những bước biến động thăng trầm của kinh tế hộ, vị trí, vai trò của nó ngày càng được khẳng định. Vai trò kinh tế hộ gia đình đã được Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá VII, chỉ rò: “Phát huy hơn nữa tiềm năng to lớn và vị trí quan trọng, lâu dài của kinh tế hộ gia đình. Nghị quyết 06 NQ/TƯ ngày 10 tháng 11 năm 1998 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, một lần nữa khẳng định: “Kinh tế xã hội ở nông thôn là loại hình tổ chức sản xuất có hiệu quả về kinh tế - xã hội, tồn tại, phát triển lâu dài, có vị trí quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn,...”[6].

Từ những căn cứ lý luận và thực tiễn nêu trên, có thể thấy vai trò của kinh tế hộ nông dân sản xuất hàng hoá được biểu hiện cả về kinh tế và xã hội, rộng hơn nữa còn cả về bảo vệ, phát triển tài nguyên - môi trường và văn hoá

- nhân văn.


- Thứ nhất hộ nông dân sản xuất hàng hoá là đơn vị kinh tế sơ sở chứa đựng một hệ thống các nguồn lực (đất đai, vốn, lao động, tư liệu sản xuất...) và sở hữu các sản phẩm mà mình sản xuất ra.

Hộ nông dân tự chủ thực hiện quá trình tái sản xuất dựa trên các quyết định phân bổ các nguồn lực cho các hoạt động sản xuất nhằm cung cấp những loại nông sản phẩm không thể thiếu được cho con người, tạo nguồn nguyên liệu cho các ngành sản xuất khác để thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của mọi thành viên trong xã hội. Vì thế cho đến nay chưa có hình thức nào có thể thay thế được kinh tế hộ nông dân trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp ở nông thôn.

- Thứ hai, hộ nông dân sản xuất hàng hoá là đơn vị duy trì, tái tạo và phát triển các nguồn lực có hiệu quả cao.

Với tư cách là đơn vị kinh tế tự chủ, hoạt động sản xuất theo cơ chế thị trường, các hộ nông dân nước ta đã tích cực đẩy mạnh phát triển sản xuất một cách năng động, đa dạng, phù hợp với năng lực và điều kiện cụ thể của mỗi hộ, góp phần quan trọng tạo ra thị trường hàng hoá ngày càng phong phú, dồi dào ngay tại các vùng nông thôn. Mặt khác, dưới tác động khách quan của các quy luật kinh tế thị trường, các hộ nông dân đang tìm mọi biện pháp để nâng cao năng lực sản xuất, chất lượng sản phẩm, nâng cao hiệu sản xuất, trên cơ sở sử dụng tốt các nguồn lực sẵn có của từng hộ về vốn, đất đai, lao động, tư liệu sản xuất và tri thức. Hệ thống nguồn lực của hộ được sử dụng theo phương thức khác nhau do điều kiện và khả năng sản xuất của từng hộ khác nhau. Việc coi hộ là đơn vị tự chủ, đã giúp cho hộ nông dân có điều kiện chủ động đầu tư thâm canh, cải tạo đất làm cho đất ngày càng tốt hơn và sử dụng tiền vốn, lao động có hiệu quả hơn. Họ biết tích luỹ vốn bằng cách “lấy ngắn nuôi dài” trong sản xuất để mở rộng quy mô sản xuất. Sản xuất có thu nhập cao là điều kiện để hộ có thể tái đầu tư các nguồn lực. Gia đình là tế bào của


xã hội, là nơi nuôi dưỡng các thành viên trong gia đình, là đơn vị tạo nguồn lao động, tái sản xuất sức lao động xã hội.

Ở nước ta, hộ nông dân sản xuất hàng hoá mới phát triển trong những năm gần đây (nhất là kinh tế trang trại gia đình), nhưng đã thể hiện vai trò, ưu thế của nó cả về mặt kinh tế, xã hội, văn hoá và môi trường. Có thể khẳng định:

- Hộ nông dân sản xuất hàng hoá góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển của nông nghiệp và kinh tế nông thôn

Hộ nông dân sản xuất hàng hoá đã mạnh dạn đầu tư, tích cực áp dụng Khoa học kỹ thuật tiên tiến, phát triển các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao, từng bước khắc phục dần tình trạng sản xuất nhỏ, hiệu quả kinh tế thấp sang sản xuất tập trung với quy mô hàng hoá nông sản không ngừng tăng lên. Từ đó tạo nên vùng chuyên môn hoá, tập trung hoá và thâm canh cao, góp phần tích cực vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mặt khác, hộ nông dân sản xuất hàng hoá phát triển sẽ kéo theo theo các ngành kinh tế khác phát triển, nhất là công nghiệp chế biến nông - lâm sản, dịch vụ phục vụ sản xuất nông - lâm nghiệp và các hoạt động kinh tế khác trong nông thôn. Làm cho kinh tế nông thôn phát triển đa dạng và chuyển dịch dần theo hướng giảm tỷ trọng nông - lâm nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ.

- Hộ nông dân sản xuất hàng hoá góp phần giải quyết các vấn đề về văn hoá - xã hội trong nông thôn

Về mặt xã hội, trong điều kiện ngành kinh tế nông thôn phát triển còn chậm, dân số nông thôn tăng nhanh, vấn đề lao động và việc làm đang là vấn đề bức xúc thì phát triển hộ nông dân sản xuất hàng hoá có một ý nghĩa to lớn. Bởi vì, hộ nông dân sản xuất hàng hoá phát triển sẽ tạo thêm nhiều việc làm, thu hút được lao động đang dư thừa trong nông thôn, nhất là số lao động


trẻ thiếu việc làm đang có xu hướng gia tăng hiện nay. Mặt khác, hộ sản xuất hàng hoá phát triển làm tăng thêm thu nhập của người lao động, đời sống người dân được cải thiện, giảm hộ đói nghèo, tăng nhanh hộ khá giầu, góp phần thúc đẩy kết cấu hạ tầng trong nông thôn. Cơ sở vật chất của các hộ nông dân được tăng cường, nhà cửa khang trang, phương tiện sinh hoạt được trang bị ngày càng đầy đủ và hiện đại làm cho bộ mặt xã hội nông thôn được thay đổi nhanh chóng.

Về mặt văn hoá, phát triển hộ sản xuất hàng hoá sẽ xoá dần những tập quán canh tác, những tập tục lạc hậu trong sản xuất thay thế bằng những quy trình kỹ thuật sản xuất nông nghiệp tiên tiến, tạo tấm gương về cách thức tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh. Mặt khác, đời sống người dân ngày càng được nâng cao, những lễ hội truyền thống tốt đẹp từ bao đời nay được chú ý khôi phục và phát triển, góp phần xây dựng nông thôn mới, tạo nên nét đẹp văn hoá trong cộng đồng làng, bản mang đậm nét nền văn minh nông nghiệp.

- Hộ nông dân sản xuất hàng hoá góp phần bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái

Với chính sách giao đất, khoán rừng cho hộ nông dân, đã tạo điều kiện thuận lợi cho hộ sản xuất hàng hoá hình thành và phát triển. Vì lợi ích lâu dài, các hộ nông dân luôn quan tâm đến việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái, nơi mà họ đang sống, lao động để làm ra của cải vật chất nuôi sống gia đình.

Trong những năm qua các hộ sản xuất hàng hoá đã sử dụng hiệu quả tài nguyên đất đai, thực hiện các biện pháp canh tác khoa học kỹ thuật và hợp lý, không ngừng tăng thêm độ mầu mỡ của đất. Sử dụng vật tư nông nghiệp như phân đạm, thuốc trừ sâu... một cách hợp lý làm cho đất, nguồn nước không bị ô nhiễm. Các hộ nông dân sản xuất hàng hoá ở vùng đồi núi đã tích cực trong


việc khoanh nuôi, bảo vệ rừng, trồng rừng tập trung, rừng đặc dụng, góp phần phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, giữ được nguồn nước ở vùng cao. Từ đó góp phần tích cực trong việc cải tạo tài nguyên đất, rừng, nguồn nước và bảo vệ môi trường sinh thái trên các vùng trong cả nước.

Trong nền kinh tế thị trường ngoài việc sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường về nông sản do họ sản xuất mà còn phải mở rộng quy mô sản xuất, thuê thêm nhân công, ở mức cao có thể có một số hộ nông dân sẽ phát triển thành trang trại gia đình. Kinh tế hộ nông dân phát triển trên thực tiễn đã hình thành các nhóm kinh tế hộ nông dân khác nhau, đó là: nhóm kinh tế hộ nông dân sản xuất hàng hoá theo mô hình kinh tế trang trại gia đình. Vì vậy, kinh tế hộ nông dân muốn phát triển tốt cần phải có sự hỗ trợ của Nhà nước về chính sách phát triển kinh tế, cơ sở hạ tầng và khoa học kỹ thuật.

1.2. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN ĐỂ CHUYỂN KINH TẾ HỘ NÔNG DÂN TỰ CUNG TỰ CẤP SANG SẢN XUẤT HÀNG HOÁ

1.2.1. Kinh tế hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ

Để đưa hộ nông dân tiến lên sản xuất hàng hoá thì điều quan trọng đầu tiên là phải xác định hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ về mặt kinh tế, pháp lý, thể hiện trên các mặt sau:

- Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất: Hộ nông dân phải có quyền sở hữu về ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác. Ở nước ta chỉ khi giao quyền sử dụng đất ổn định và lâu dài cho các hộ nông dân thì hộ nông dân mới bắt đầu có quyền tự chủ trong sản xuất. Cùng với việc giao quyền sử dụng ruộng đất cho hộ nông dân, họ còn được quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp và thừa kế ruộng đất như Luật đất đai đã quy định.

- Quan hệ về quản lý: Do làm chủ về tư liệu sản xuất nên hộ nông dân cũng làm chủ trong quản lý sản xuất. Hộ là người lựa chọn, định hướng sản xuất, định chỉ tiêu kế hoạch và thực hiện kế hoạch sản xuất về mặt pháp lý.


Hộ nông dân là đơn vị kinh tế độc lập do một người chủ hộ hay một người có năng lực và uy tín trong gia đình đứng ra quản lý.

Về hình thức quản lý cũng có những hộ liên doanh theo kiểu 2-3 hộ gia đình tự nguyện hợp nhất trong một "hộ" lớn hơn với tư cách pháp nhân mới để có thêm năng lực về vốn, ruộng đất, kỹ thuật, có thêm sức cạnh tranh với các hộ khác. Các dạng nông hộ này hiện nay có ở một số ngành sản xuất tương đối đặc biệt như nuôi tôm cá ven biển, sản xuất tiểu thủ công nghiệp - những ngành cần nhiều vốn và kỹ thuật hơn sản xuất truyền thống.

- Về phân phối: Hộ nông dân có toàn quyền phân phối các sản phẩm làm ra, các chi phí đều được tính từ đầu vụ người nông dân được kích thích sản xuất bằng vật chất do chính họ làm ra, không bị lãng phí hoặc bị chiếm đoạt trong khâu phân phối sản phẩm. Sau khi dành cho tiêu dùng, họ có thể tự do mang trao đổi sản phẩm của mình trên thị trường mà không gặp bất cứ một sự ngăn cản nào. Điều này sẽ kích thích nông hộ sản xuất hàng hoá.

Hộ nông dân trở thành đơn vị kinh tế tự chủ, tự họ chịu trách nhiệm về những rủi ro trong sản xuất, tự quyết định sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Chính điều này làm cho hộ nông dân phải tính toán kỹ về hiệu quả kinh tế trong sản xuất, họ trở nên năng động trong kinh doanh. Kết quả là tư liệu sản xuất, sức lao động được sử dụng có hiệu quả nhất.

Trong các yếu tố xác nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ trình bày ở trên, quyền được sử dụng ruộng đất lâu dài và làm chủ trong phân phối sản phẩm làm ra là hai yếu tố quan trọng nhất.

1.2.2. Kinh tế hộ nông dân là chủ thể trong sản xuất nông nghiệp

a. Sự tồn tại khách quan của kinh tế nông hộ

Cũng giống như quá trình sản xuất vật chất khác của xã hội, quá trình sản xuất nông nghiệp được tiến hành theo bốn giai đoạn: sản xuất - chế biến, bảo quản - lưu thông - tiêu dùng. Ở bất cứ nước nông nghiệp nào, các quá

Xem tất cả 160 trang.

Ngày đăng: 22/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí