Tính Tất Yếu Khách Quan Để Chuyển Kinh Tế Hộ Nông Dân Tự Cung Tự Cấp Sang Sản Xuất Hàng Hoá 20803


trình trên đều do hộ nông dân, các trang trại đảm nhận hoặc ở từng giai đoạn đều có mối liên hệ chặt chẽ với nông dân. Sản xuất nông nghiệp ở mọi quốc gia đều mang tính chất truyền thống lâu đời. Nền nông nghiệp đã trải qua các hình thái kinh tế khác nhau như: nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Hiện nay kinh tế hộ gia đình được thừa nhận là hình thức kinh tế có hiệu quả nhất trong nông nghiệp. Sự tồn tại khách quan của kinh tế hộ và trang trại trong suốt lịch sử phát triển của ngành nông nghiệp là do những nguyên nhân khách quan sau:

- Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là các sinh vật, các cơ thể sống, quá trình sản xuất ra sản phẩm nông nghiệp là quá trình chuyển hoá về vật chất và năng lượng thông qua sự sinh trưởng của cây trồng, con gia súc. Đó là quá trình liên tục đòi hỏi phải có sự chăm sóc thường xuyên của con người. Nó khác hoàn toàn với các quy trình, các sản phẩm có thể phân chia rò ràng trong các dây chuyền sản xuất công nghiệp. Đặc thù trên của sản xuất nông nghiệp phù hợp với lao động có trách nhiệm trong gia đình, nó cũng phù hợp với kiểu tổ chức sản xuất gia đình, sản xuất trang trại.Traianốp - nhà nông học Nga nổi tiếng đã rút ra kết luận: Càng gần, càng gắn bó với quá trình sinh học thì sản xuất càng mang tính hộ gia đình; càng xa quá trình sinh học càng có nhu cầu liên kết, tập trung hoá và chuyên môn hoá.

- Về mặt xã hội, hộ nông dân là một tế bào bền vững của xã hội, là đơn vị tiêu chuẩn sản xuất cơ bản của nông nghiệp, mang tính đa dạng, phân tán, phức tạp của nghề nông, phụ thuộc nhiều vào tự nhiên và lao động. Đặc điểm này làm cho sản xuất nông nghiệp phù hợp với sản xuất của hộ gia đình hơn bất kỳ tổ chức nào khác.

Sự phát triển của công cụ sản xuất từ chiếc gậy dùng để chọc lỗ gieo hạt đến các công cụ thủ công và tiến bộ hơn là cày bừa, dùng sức kéo súc vật đến máy móc cơ khí ngày nay vẫn không làm mất đi công trình của kinh tế hộ gia


đình. Đối tượng dùng các công cụ sản xuất ấy là lao động gia đình. Thực tiễn ở nước ta cho thấy, kinh tế hộ gia đình có sức sống riêng của nó, tuy trong thời gian dài ít được chú ý phát triển hoặc hạn chế và ngăn cản, nhưng sự tồn tại khách quan đã quyết định sự vận động và phát triển của nó, thể hiện khá rò nét tính hiệu quả của sản xuất trên đất 5% của gia đình là bằng chứng mạnh mẽ của kinh tế hộ gia đình. Đối với sản xuất nông nghiệp, không ở đâu, không một tổ chức nào có hiệu quả sản xuất cao như ở khu vực gia đình. Thay đổi công cụ lao động chỉ trợ giúp cho các quá trình biến đổi sinh học diễn ra trong sản xuất chứ không làm thay đổi bản chất của quá trình đối với mục đích khai thác tốt hơn các điều kiện tự nhiên phục vụ cho con người. Chính đặc điểm này quy định sự tồn tại khách quan của kinh tế hộ gia đình và kinh tế trang trại.

Trong sản xuất nông nghiệp cũng diễn ra quá trình xã hội hoá sản xuất. Nhưng do đặc điểm riêng của ngành nông nghiệp - đối tượng của nó là các cá thể hoặc quần thể sinh vật, kết quả của sản xuất là các sản phẩm nông nghiệp

- đòi hỏi quá trình sản xuất liên tục không thể phân chia thành các bán thành phẩm, từ người đầu tiên bắt đầu quy trình sản xuất đến sản phẩm cuối cùng; tốt nhất vẫn là do các hộ nông dân đảm nhận. Hơn ai hết, họ gắn liền cuộc sống của gia đình họ với đất đai, với sản phẩm cuối cùng.

Từ những nhận định như trên có thể kết luận, đặc thù riêng của quá trình sản xuất nông nghiệp đã quyết định sự tồn tại khách quan của kinh tế hộ gia đình là một đơn vị chủ thể của tổ chức sản xuất xã hội.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 160 trang tài liệu này.

b. Vai trò của kinh tế hộ trong quá trình phát triển nông nghiệp

Như trên đã trình bày về sự tồn tại khách quan của hộ nông dân là do đặc điểm rất riêng của sản xuất nông nghiệp. Nhiều nhà nghiên cứu đều thừa nhận hộ là đơn vị kinh tế cơ bản, là chủ thể sản xuất nông nghiệp.

Nghiên cứu khả năng phát triển kinh tế hộ nông dân theo hướng sản xuất hàng hoá ở huyện Đồng Hỷ - Thái Nguyên - 6


Năm 1925, Traianốp - nhà nông học Nga xuất sắc đã nghiên cứu hình thái của gia đình nông dân không có lao động làm thuê và chỉ sử dụng sức lao động gia đình là hình thức tổ chức sản xuất mang lại hiệu quả kinh tế cao trong điều kiện sản xuất nông nghiệp còn làm bằng thủ công. Tổng kết kinh nghiệm của mô hình trang trại ở Mỹ, Anh, Hà Lan, Italia, ông cũng chứng minh sức sống của kinh tế hộ trên mảnh đất gia đình.

Một số nhà khoa học khác của lý thuyết phát triển coi kinh tế hộ là: "hệ thống các nguồn lực" có nghĩa hộ là đơn vị để duy trì và phát triển nguồn lao động, vốn..., đảm bảo cho quá trình phát triển của ngành nông nghiệp cũng như của toàn xã hội. Hệ thống nguồn lực của hộ được sử dụng theo phương thức khác nhau, do đó đem lại hiệu quả khác nhau. Vì thế các tác giả đã đưa ra ý kiến về chiến lược sử dụng các nguồn lực của hộ trong nông thôn.

Về phương diện lịch sử thì một trong những con đường tích luỹ cơ bản cũng bắt đầu từ quá trình kinh doanh của các gia đình. Xã hội càng phát triển thì sự phân công lao động càng diễn ra sâu sắc, càng tạo nhiều cơ hội để các cá nhân, các hộ tự nguyện tham gia vào sự phân công lao động của xã hội, xoá bỏ sự ép buộc lao động đã có thời diễn ra ở một số nước, trong đó có nước ta.

Trong thành quả của cải cách kinh tế của các nước, có những đóng góp quan trọng của kinh tế hộ. Ở Trung Quốc đã giao quyền tự chịu trách nhiệm trong sản xuất và đơn vị sản xuất cơ bản ở nông thôn, vì thế sản xuất đạt kết quả ngạc nhiên. Trong nông thôn hình thành nhiều loại hình nông hộ, công nghiệp nông thôn phát triển nhanh, góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế 12 - 13% năm của nước này.

Các nước khác trong khu vực Đông Nam Á như Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia, Philippines... trong chiến lược phát triển kinh tế cũng rất chú ý tới khu vực kinh tế nông thôn mà hạt nhân cơ bản là kinh tế nông hộ . Rất nhiều


cuộc hội thảo quốc tế về kinh tế hộ đã khẳng định, ở các nước trong khu vực chủ thể kinh tế nông nghiệp là hộ nông dân. Khi sản xuất gặp khó khăn và có biến động lớn thì kinh tế nông hộ có khả năng thích ứng cao, nó có khả năng phục hồi rất nhanh sau mỗi biến động.

Ở nước ta trong thời kỳ hợp tác hoá nông nghiệp, kinh tế hộ cũng chỉ được coi là "kinh tế phụ gia đình" nhưng trên thực tế sản xuất của nông hộ chiếm tới 48% giá trị tổng sản lượng nông nghiệp, thu nhập từ kinh tế gia đình chiếm 50-60% tổng thu nhập của hộ, Tuy kinh tế tập thể sử dụng trên 90% đất đai và các tư liệu sản xuất chủ yếu nhưng thu nhập của người nông dân từ kinh tế tập thể cũng chỉ chiếm 40-50%. Thời kỳ này thực chất là thời kỳ trì trệ nhất của nông nghiệp nước ta trong hơn 30 năm qua. Từ khi Nghị quyết 10 xác định hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ sản xuất - kinh doanh, kinh tế hộ đã có những bước phát triển đáng kể và khẳng định vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá ở nước ta. Nó thể hiện rò trên các mặt:

- Phát huy tốt các tiềm lực sản xuất (lao động, đất đai, tiền vốn và các kinh nghiệm sản xuất...) để tạo ra nhiều nông sản phẩm hàng hoá cho xã hội, tạo ra bước tiến quan trọng trong sản xuất nông nghiệp ở nước ta từ những năm 1990 đến nay.

- Phát triển kinh tế hộ tạo cho sản xuất phát triển, mặt khác mở rộng thị trường nông sản phẩm hàng hoá cho quá trình phát triển công nghiệp thành thị và nông thôn.

- Phát triển kinh tế hộ không chỉ có vai trò to lớn về kinh tế mà nó còn có ý nghĩa rất lớn về mặt xã hội vì việc gia tăng sản phẩm hàng hoá và hiệu quả kinh tế trong nông nghiệp đã tạo thêm việc làm, tăng thu nhập, cải thiện và nâng cao đời sống - cơ sở kinh tế vũng chắc để giải quyết các vấn đề xã hội.


1.2.3. Tính tất yếu khách quan để chuyển kinh tế hộ nông dân tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá

Quá trình phát triển nền nông nghiệp trải qua ba giai đoạn từ nông nghiệp tự cung tự cấp đến đa dạng hoá sản xuất và sản xuất chuyên môn hoá. Xã hội càng phát triển, đời sống ngày càng nâng cao, đòi hỏi nhu cầu nông sản phẩm ngày càng lớn cả về số lượng và chất lượng, cùng với nó khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển làm cho sự phân công lao động xã hội ngày càng chi tiết cụ thể hơn, sự chuyên môn hoá ngày càng sâu và sự gắn bó giữa người sản xuất và tiêu dùng càng chặt chẽ, những hộ nông dân sản xuất tự cung tự cấp có quy mô nhỏ, đầu tư thấp không có khả năng thích ứng. Một bộ phận hộ nông dân có điều kiện phát triển sản xuất với quy mô lớn về đầu tư, tích tụ ruộng đất, chuyên môn hoá…chuyển sang sản xuất hàng hoá, mục đích thu được lợi nhuận cao.

Nền kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường được hình thành là kết quả phát triển của lực lượng sản xuất. Trong nền kinh tế thị trường hộ nông dân chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế của thị trường.Thông qua sự vận động của kinh tế thị trường, những hộ nông dân sản xuất kém hiệu quả phải thu hẹp quy mô sản xuất, thậm chí bị phá sản. Trong khi đó những hộ nông dân có lãi càng có điều kiện tích luỹ để mở rộng quy mô sản xuất ngày càng lớn và tạo điều kiện tích luỹ để mở rộng quy mô sản xuất ngày càng lớn và tạo ra nhiều sản phẩm hay dịch vụ hàng hoá lớn hơn.

Quá trình công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn đã và đang dần dần thay thế lao động thủ công bằng lao động cơ giới máy móc, những thành tựu khoa học kỹ thuật về lai tạo giống cây mới, chế tạo ra những sản phẩm sản phẩm sinh học, hoá học đặc hiệu… giúp tăng cường khả năng chế ngự thiên nhiên của con người, tăng hiệu quả sản xuất, tăng năng suất, chất lượng nông sản, giải phóng sức lao động người nông dân thoát khỏi tình


trạng sản xuất nhỏ bé tự cung tự cấp chuyển thành hộ nông dân sản xuất hàng hoá. Ngày nay khi mà nền nông nghiệp thế giới đã trải qua nhiều bước phát triển thăng trầm, người ta đã rút ra được kết luận đó là: Những đặc điểm của sản xuất nông nghiệp tự nó quyết định phương thức sản xuất và con đường phát triển thích hợp.

Những đặc điểm chủ yếu quyết định con đường chuyển từ phát triển tự nhiên, hiện vật sang nền nông nghiệp phát triển sản xuất hàng hoá mà trong đó nông trại gia đình là nhân vật trung tâm.

Trong nông nghiệp đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế được. Con người biết sử dụng đất đai một cách hợp lý thì nó không những không bị giảm độ phì mà ngày càng tốt hơn.Tuy nhiên diện tích ruộng đất phục vụ nông nghiệp chỉ có giới hạn nhất định. Do vậy nền tảng của phát triển nông nghiệp là sự gắn bó của người lao động với ruộng đất, với tư liệu sản xuất. Chính điều này quy định nghề nông khác hẳn với sản xuất công nghiệp và quy định đơn vị sản xuất trong nông nghiệp là hộ gia đình nông dân khác hẳn với các xí nghiệp quy mô lớn như trong công nghiệp.

Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là cây trồng, vật nuôi là những sinh vật sống, có chu kỳ sản xuất dài, có phản ứng nhạy cảm với tự nhiên hay điều kiện sống, do vậy đòi hỏi người nông dân phải am hiểu sâu sắc đối với từng loại vật nuôi, cây trồng, từng điều kiện tác động. Do tính chất thời vụ, sự chịu nhiều ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên như khí hậu, thời tiết nên trong nông nghiệp không thể chuyên môn hoá cao một loại sản phẩm thuần nhất. Trong sản xuất nông nghiệp chỉ có thế phát triển chuyên môn hoá kết hợp với phát triển tổng hợp mới tận dụng được đất đai, lao động, tiền vốn…làm cho sản xuất đạt hiệu quả kinh tế cao.

Do sản xuất nông nghiệp diễn ra trong phạm vi không gian rộng lớn mang tính thời vụ cao đòi hỏi người lao động phải có một tinh thần trách


nhiệm và tự giác cao. Vì thế hình thức tổ chức sản xuất theo kiểu hợp tác xã tập thể là kém hiệu quả, chỉ có hộ gia đình nông dân là phù hợp nhất.

Trong nông nghiệp quá trình tái sản xuất kinh tế và quá trình tái sản xuất tự nhiên luôn đan xen để mạng lại hiệu quả và là một quá trình liên tục, hoàn chỉnh không thể chia cắt về thời gian, không gian. Do vậy sản xuất nông nghiệp không thể phân chia ra các công đoạn máy móc như công nghiệp

Sự mâu thuẫn giữa chi phí sản xuất và thu nhập được gắn với sản phẩm cuối cùng. Thái độ, kỹ năng, năng suất lao động có ảnh hưởng đến năng suất cây trồng, vật nuôi, do vậy đòi hỏi có sự thống nhất giữa các đơn vị sản xuất và đơn vị phân phối. Qua đây có thể thấy: Hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp thích hợp nhất là hộ gia đình nông dân, khi hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất và lợi ích của mình được đảm bảo thì họ sẽ huy động mọi nguồn lực để đầu tư vào sản xuất với ý thức hoàn toàn tự nguyện.

Công cụ sản xuất hiện đại không làm mất đi tính chất sinh học của đối tượng sản xuất nông nghiệp. Đối tượng sản xuất nông nghiệp là cây con, nó đòi hỏi sự thống nhất giữa quá trình quản lý với quá trình lao động, sản xuất phân phối và tiêu dùng, sự thống nhất giữa chủ thể kinh tế và hoạt động kinh tế. Đặc tính này quy định sự tồn tại lâu dài của kinh tế hộ.

Như vậy có thể kết luận rằng: Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất mà nền sản xuất xã hội chuyển từ sản xuất tự nhiên, tự cung, tự cấp thành sản xuất kinh tế hàng hoá, hộ gia đình nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, là nhân vật trung tâm trong quá trình chuyển nền nông nghiệp tự nhiên hiện vật sang nền nông nghiệp hàng hoá

1.3. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ NÔNG DÂN SẢN XUẤT HÀNG HOÁ

Trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp, kinh tế hộ nông dân sản xuất hàng hoá chịu sự tác động bởi các nhóm yếu tố như điều kiện tự nhiên, điều


kiện kinh tế và khả năng tổ chức quản lý và sản xuất, điều k iện về khoa học kỹ thuật và các chính sách của Nhà nước

1.3.1. Các nhân tố về điều kiện tự nhiên

- Vị trí địa lý và đất đai

Vị trí đại lý có ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp và đến sự phát triển kinh tế hộ nông dân. Những hộ nông dân có được những vị trí thuận lợi như gần đường giao thông, gần cơ sở chế biến nông sản, gần thị trường tiêu thụ sản phẩm, gần trung tâm các khu công nghiệp, đô thị lớn... sẽ có điều kiện phát triển sản xuất hàng hoá. Thực tế cho thấy,càng ở những vùng xa,... do vị trí không thuận lợi nên kinh tế hộ nông dân kém phát triển.

Sản xuất của hộ nông dân hiện nay chủ yếu là nông nghiệp, mà đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, không thể thay thế được trong quá trình sản xuất nông nghiệp. Do vậy quy mô đất đai, địa hình và tính chất nông hoá thổ nhưỡng có liên quan mật thiết tới từng loại nông sản phẩm, tới số lượng và chất lượng sản phẩm sản xuất ra, tới giá trị lợi nhuận và lợi nhuận thu được.

Những nhân tố về điều kiện tự nhiên phải kể đến là các ưu đãi của tự nhiên có ảnh hưởng trực tiếp đến mảnh đất mà người nông dân canh tác, như thời tiết khí hậu, quá trình hình thành đất có tác động quyết định đến độ phì tự nhiên, vị trí của mảnh đất đó, hay có thể nói gọn lại là địa tô chênh lệch 1. Đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu trong nông nghiệp, quỹ ruộng đất nhiều hay ít, tốt hay xấu đều có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả sản xuất; đến khả năng sản xuất hàng hoá.

- Khí hậu và môi trường sinh thái

Khí hậu thời tiết có ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp. Điều kiện thời tiết, khí hậu có lượng mưa, độ ẩm, nhiệt độ, ánh sáng... có mối quan hệ chặt chẽ đến sự hình thành và sử dụng các loại đất. Những nơi có điều kiện thời tiết, khí hậu thuận lợi, được thiên nhiên ưu đãi sẽ hạn chế được những bất

Xem tất cả 160 trang.

Ngày đăng: 22/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí