lãnh thổ, khoảng 70% là khô cằn hoặc bán khô cằn và phần lớn vùng trung tâm không thích hợp cho dân cư sinh sống.
Vì nằm trong cả hai vùng khí hậu nhiệt đới và ôn đới của Nam bán cầu nên mỗi khu vực ở Australia có đặc điểm khí hậu riêng. Miền bắc nước Australia chịu ảnh hưởng bởi khí hậu nhiệt đới nóng và ẩm ướt, trong khi đó bờ biển đông nam nơi có rất đông người Australia sinh sống thì khí hậu lạnh và khô hơn, còn vùng tây nam mùa hè rất khô và nóng nhưng lại ôn hoà và ẩm ướt vào mùa đông. Mùa hè kéo dài từ tháng Chạp đến tháng Hai, mùa thu từ tháng Ba đến tháng Năm, mùa đông từ tháng Sáu đến tháng Tám, và mùa xuân từ tháng Chín đến tháng Mười Một.
2.1.1.2. Dân cư.
Australia là lục địa có mật độ dân cư thưa thớt nhất trên trái đất. Tính đến nay, dân số của Australia là 19,4 triệu người, mật độ dân số trung bình là 2,4 người/km2. Vì những lý do về môi trường và khí hậu mà khu định cư của người dân ở Australia được coi là một trong những nơi tập trung đông nhất trên thế giới, 90% dân cư sống trên khoảng 3% tổng diện tích đất liền của Australia. Australia có tới 85% dân số sống ở thành thị và 15% sống ở nông thôn. Tỷ lệ gia tăng dân số hàng năm trong những năm đầu thập kỷ 1990 là 1,4%. Nguyên nhân là do phong trào nhập cư vào Australia đang tăng mạnh, số người trong độ tuổi sinh nở do vậy cũng tăng lên. Tuổi thọ trung bình của người Australia là 82 tuổi đối với phụ nữ và 76 tuổi đối với nam
giới. Về thành phần dân tộc, 95% dân số Australia có nguồn gốc châu Âu, 4% có nguồn gốc châu Á, còn lại 1% mang nét thổ dân.
2.1.1.3. Kinh tế.
Người ta nói rằng những nguồn của cải kinh tế của Australia ―cưỡi trên lưng cừu‖ mà đến, ý muốn nói đến sự giầu có của xứ này là nhờ vào việc khai thác các nguồn lợi tự nhiên của nó. Đây là một đất nước giầu có về tài nguyên thiên nhiên, trở thành nhà xuất khẩu chính về sản phẩm nông nghiệp, khoáng sản, chất xám và chất đốt - chiếm hơn 50% kim ngạch xuất khẩu của Australia, các mặt hàng công nghiệp chiếm hơn 30% kim ngạch xuất khẩu.
Phát triển theo hướng kinh tế tư bản phương Tây, Australia có nền kinh tế lớn thứ bảy trong khối OECD và thứ ba trong khu vực Châu Á sau Nhật Bản và Trung Quốc. Australia cũng là nước có mức thu nhập quốc dân tính theo đầu người đứng thứ 27 trên toàn thế giới. Đơn vị tiền tệ của của Australia là đồng đôla Australia-AUD, (theo tỷ giá ngày 17/10/2007, 1 AUD tương đương 14,162 đồng Việt Nam và khoảng bằng 0.88 USD).
Có thể bạn quan tâm!
- Ảnh hưởng của văn hóa kinh doanh Australia đến năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam - 2
- Các Yếu Tố Cấu Thành Năng Lực Cạnh Tranh.
- Đường Ích Lợi Cận Biên Giảm Dần
- Đàm Phán Với Các Doanh Nhân Australia
- Năng Lực Cạnh Tranh Của Hàng Hóa Việt Nam, Năm 2006
- Ảnh Hưởng Của Văn Hoá Kinh Doanh Australia Đến Năng Lực Cạnh Tranh Của Hàng Hoá Việt Nam Trên Thị Trường Này.
Xem toàn bộ 116 trang tài liệu này.
Nông nghiệp: Australia với trên 450 triệu hecta đất trồng trọt và chăn nuôi luôn được đánh giá là quốc gia có nền nông nghiệp hiện đại với nhiều loại nông phẩm khác nhau. Nhiều vùng khí hậu khác nhau đã mang lại cho Australia đủ loại hoa quả, rau tươi. Về chăn nuôi, Australia phát triển nuôi bò, cừu, lợn, gà và dê.
Mặc dù đất đai khô cằn, khí hậu ít mưa, nhưng việc xuất khẩu nông sản, bao gồm lúa mỳ, len, thịt bò, đường và các chế phẩm sữa vẫn chiếm xấp xỉ 1/3 thu nhập quốc dân của Australia. Năm 2005-2006, giá trị xuất khẩu nông nghiệp chiếm 31% kim ngạch xuất khẩu, năm 2005-2006, là 16%.1
Công nghiệp: - Công nghiệp khai khoáng: Australia là nước có nguồn khoáng sản phong phú và là nhà sản xuất-xuất khẩu lớn nhất thế giới về boxits nhôm, than, chì, kim cương và sa khoáng. Australia có trên 1200 cơ sở khai thác mỏ và doanh thu hàng năm trên 30 tỷ AUD. Chi phí sản xuất ở đây thấp hơn đáng kể so với thế giới.
- Công nghiệp sản xuất: Hiện nay, Australia đang thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp sản xuất bao gồm sản xuất thiết bị kỹ thuật cao, chế biến thực phẩm, sản xuất vật liệu xây dựng, phụ tùng ôtô, dệt may mặc và giày da. Nhiều công ty Australia đã áp dụng công nghệ kỹ thuật cao vào các lĩnh vực sản xuất như sản xuất thuốc và thiết bị y tế, phần mềm máy tính, viễn thông năng lượng mặt trời và công nghiệp hàng không.
1 Nguồn: Báo cáo thống kê trị giá hàng xuất khẩu Tổng cục thống kê
- Công nghiệp dệt may và giày da tương đối phát triển đặc biệt do chính sách hạn chế nhập khẩu bảo hộ sản xuất hàng trong nước của chính phủ. Phần đông các công ty may mặc và giầy da Australia không có vốn lớn và thường đầu tư ở nước ngoài rồi đưa hàng về thị trường trong nước.
- Công nghiệp chế biến thực phẩm Australia phát triển ở trình độ cao đạt tiêu chuẩn quốc tế và là ngành công nghiệp sản xuất lớn nhất trong nước với tổng số hàng bán ra hàng năm là trên 25 tỷ AUD chiếm 20% tổng số hàng xuất khẩu tại Australia. Trong lĩnh vực này các công ty Australia rất thích liên doanh với các công ty Châu Á khác.
Dịch vụ: Công nghiệp dịch vụ Australia đạt trình độ quốc tế và xuất khẩu dịch vụ đạt mức tăng trưởng hàng năm là 20%. Lĩnh vực này bao gồm nhiều loại hình dịch vụ bao gồm từ giáo dục cho đến vui chơi giải trí và bưu chính viễn thông.
Du lịch là ngành công nghiệp lớn nhất ở Australia, nó trực tiếp hoặc gián tiếp cung cấp hơn 400.000 việc làm. Hàng năm hơn hai triệu khách du lịch đến Australia, tiêu hàng tỷ đôla trong những tuần lễ họ lưu lại đây. Chính phủ Australia còn đầu tư rất nhiều vào ngành viễn thông để đảm bảo mọi người dân của mình kể cả những cộng đồng xa xôi đều được sử dụng một mạng lưới điện thoại trong nhà và mạng lưới điện thoại công cộng như nhau. Ngoài ra, trong những năm gần đây, ngành văn hoá và nghệ thuật đã đem lại 2,5% tổng sản phẩm quốc nội cho Australia. Xuất khẩu sản phẩm và dịch vụ văn hoá Australia tăng bình quân 7% mỗi năm và đạt mức 728 triệu AUD trong năm 1998-1999. Tổng sản xuất các sản phẩm nghe nhìn đạt 145 triệu AUD. Ước tính có khoảng 850.000 người tham gia làm việc trong các lĩnh vực liên quan đến nghệ thuật mỗi năm.
2.1.2. Văn hoá Australia.
2.1.2.1. Australia một đất nước đa dân tộc với nền văn hoá mở
Những cư dân đầu tiên định cư ở Australia từ khoảng 40.000 năm về trước là những người da đen thuộc nhóm chủng tộc Australoid mà sau nay người châu Âu gọi
là những người Aborigine (thổ dân Australia). Nhưng đến năm 1788, những thực dân người Anh đầu tiên đặt chân đến Australia vẫn tuyên bố lục địa này là miền đất không có người và đây là vùng đất của Anh quốc. Từ đó lối sống trong xã hội Australia thoạt đầu thể hiện di sản của những người nhập cư từ Anh quốc. Tuy nhiên các phong tục dần thay đổi do những người nhập cư ngày một thích nghi với cuộc sống ở một đất nước rộng lớn và khí hậu độc đáo. Trong những năm tiếp theo, dân số của Australia đã tăng lên gấp đôi, thêm vào đó việc đổ xô đi tìm vàng trong những năm 1850 đã đưa đến miền đất này những người di cư thuộc nhiều dân tộc khác nhau, trong đó có nhiều người Trung Hoa. Tiếp đến, vào cuối Thế chiến thứ hai có một làn sóng những người nhập cư qui mô lớn vào Australia, mà chủ yếu từ các nước Italia, Hy Lạp, Nam Tư và Đức. Từ giữa những năm 1970 trở về sau dòng người di cư từ châu Á ngày càng nhiều, họ đến từ Đông Nam Á, Ấn Độ, Nhật Bản, Trung Quốc và Hồng Kông. Ngày nay, trong thành phần dân tộc của Australia, 95% dân số có nguồn gốc châu Âu, 4% có nguồn gốc châu Á (trong đó 1% có nguồn gốc Việt Nam), còn lại 1% mang nét thổ dân.
Những dòng người nhập cư từ các quốc gia Châu Âu và Châu Á tới Australia từ sau Thế chiến II đã làm thay đổi và làm phong phú bộ mặt dân tộc Australia. Lối sống, phong tục, tập quán của họ đã có ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội Australia. Điều này dẫn tới sự phát triển của một xã hội đa văn hoá - Một cái bình trộn lẫn các sắc dân của hơn 100 dân tộc, nói hơn 90 ngôn ngữ khác nhau và có hơn 80 tôn giáo khác nhau.
2.1.2.2. Tôn giáo
Australia là một quốc gia thế tục không có tôn giáo chính thức nên những tín đồ của tất cả các tôn giáo đều có quyền tự do tín ngưỡng dưới sự đảm bảo của pháp luật nhưng chẳng mấy khi người ta phải dùng tới pháp luật để giải quyết tranh chấp tôn giáo. Điều này chủ yếu là vì bản chất thoải mái, vô tư của người dân Australia và cũng do vậy các nhóm tôn giáo ở Australia không tập trung ở những khu vực địa lý riêng biệt. Là một đất nước đa dân tộc, đa tôn giáo, chính quyền cũng như người dân
Australia khuyến khích những người dân di cư giữ gìn bản sắc văn hoá và các hoạt động thờ cúng, tín ngưỡng của họ.
Về thành phần tôn giáo, 26% dân Australia theo Giáo phái Anh, 26% theo Thiên chúa giáo La Mã, 24% các nhóm Cơ đốc giáo khác, 24% các tôn giáo khác bao gồm Đông phương chính thống, Hồi giáo, Do Thái và Phật giáo.
2.1.2.3. Quan điểm sống
Sự kết hợp giữa nền văn hoá trẻ của Australia với phong cách sinh hoạt của những người lính Mỹ đóng quân ở Australia trong Thế chiến thứ hai và lối sống của những người dân di cư từ nhiều nơi trên thế giới đã tạo ra người dân có tính cách đa dạng. Những con người “Thoải mái và thân tình” với đức tính hiếu khách, thành thật và khiêm tốn, thân thiện và dễ làm quen; thẳng thắn trong các mối quan hệ xã hội, với họ việc đưa ra những lời khuyên hay nhận xét ai sẽ bị nghĩ là tỏ vẻ ta đây, là hơn người. Một lối sống lạc quan, yêu đời thể hiện ở phong cách sống hài hước, dí dỏm, các lời châm chọc thân thiện có thể nhằm thẳng vào khách một cách tự nhiên thoải mái. Khách nước ngoài không nên suy nghĩ về các châm chọc này, hãy tỏ ra tự tin, thể hiện thái độ thân thiện và cũng nên đáp lại một cách hài hước. Người Australia thậm chí còn sử dụng sự hài hước ngay cả khi họ bị ức chế. Một đặc tính nổi bật nữa của người Australia là họ ưa tranh luận và thích bàn cãi về những chủ đề mà họ chưa nhất trí.
Sự công bằng là một nguyên tắc quan trọng trong cuộc sống người Australia.
―A fair go‖ hay ―cư sử công bằng‖ là niềm tin của người Australia rằng bất kỳ ai, bất kể nguồn gốc xuất thân hay tuổi tác, đều phải được cơ hội bình đẳng để tiến thân trong công việc mà anh ta đã chọn để làm. Có lẽ chỉ ở nền văn hoá Australia xã hội hầu như không có sự phân biệt giai cấp, và có lẽ cũng chỉ ở đây các doanh nhân mới đối xử với nhau thân thiện như vậy. Đối với họ bất cứ sự khoe khoang, khoác lác nào cũng đều gây ấn tượng rất xấu, do đó sẽ có rất nhiều lời châm biếm nhạo báng dành cho những người như vậy. Australia là một dân tộc đặc biệt bởi lẽ họ coi trọng những người có
thiệt thòi trong cuộc sống.
Australia là đất nước của thân thiện, gần gũi, thoải mái nhưng hành vi cư xử nơi công cộng cũng có những tiêu chuẩn nhất định mà người Australia rất tôn trọng. ở nơi đông người việc đàn ông có những hành động suồng sã với phụ nữ là không thể chấp nhận được và sẽ bị lên án gay gắt. Theo phong cách lịch sự và sự tôn trọng thì khi ra vào đàn ông thường mở cửa cho phụ nữ, cấp dưới mở cửa cho cấp trên, người trẻ mở cửa cho người già. Trong trao đổi, trò chuyện người Australia luôn giữ khoảng cách xa một tầm tay với đối với cơ thể họ. Duy trì khoảng cách cá nhân là rất quan trọng đối với người Australia.
2.1.2.4. Ngôn ngữ
Từ năm 1788, khi lối sống Anh quốc trở thành phong cách sống của những ngưòi dân trên lục địa thì tiếng Anh cũng là ngôn ngữ chính của Australia. Tiếng thổ dân và các ngôn ngữ khác như tiếng Hy Lạp, Italia và hàng loạt ngôn ngữ khác của các nước Châu Âu, Châu Á cùng với dòng ngưòi di cư được sử dụng trong cộng đồng người thiểu số. Ước tính có ít nhất 17% dân số nói thứ tiếng khác ngoài tiếng Anh. Người Australia chủ yếu nói tiếng Anh, nhưng đó là một kiểu tiếng Anh đầy rẫy những tiếng lóng muôn hình muôn vẻ và những từ ngữ vay mượn từ tiếng thổ dân, ví dụ như beer o’clock-sau giờ làm việc. Người Australia thích chơi chữ nên họ lồng vào ngôn ngữ của mình tất cả các dạng viết tắt và tiếng lóng. Cũng chính vì vậy tiếng Anh ở Australia khác nhiều so với tiếng Anh ở Mỹ và tiếng Anh ở Anh. Ở dạng văn viết, tiếng Anh - Australia kết hợp các yếu tố của tiếng Anh - Anh và tiếng Anh - Mỹ. Cách phát âm chuẩn và ngữ nghĩa của các từ được trình bày trong quyển Từ điển MacQuairie.
2.1.2.5. Giáo dục
Australia là một nước có nền giáo dục phát triển cao với tỷ lệ phổ cập giáo dục và tốt nghiệp phổ thông trung học đứng hàng đầu thế giới. Và tuy nền giáo dục còn non trẻ nhưng hiện nay Australia đã có hệ thống 39 trường đại học đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Trên đất nước Australia, tất cả các trẻ em trong độ tuổi từ sáu đến mười lăm phải đến trường, sau sáu năm học tại trường phổ thông, các em sẽ lên trường trung học và sẽ học ở đó ít nhất bốn năm. Những ai muốn học lên đại học hay cao đẳng sẽ học thêm hai năm nữa tại trường trung học để chuẩn bị cho một kỳ thi công khai. Các học sinh chọn con đường học cao hơn sẽ phải vào học tại một trường đại học hay ghi tên vào một trường chuyên nghiệp cao đẳng kỹ thuật. Giáo dục ở Australia thay vì theo phương pháp giáo dục cổ điển của Anh, các học sinh được khuyến khích suy nghĩ, đặt câu hỏi và tranh luận về giá trị của những gì hiện đang được mọi người tin tưởng. Trung tâm của công việc giáo dục được đặt vào việc dạy các kỹ năng sẽ giúp cho học sinh trong cuộc sống độc lập sau này và khuyến khích học sinh trưởng thành thành những công dân có ích cho xã hội.
2.1.2.6. Thức ăn và thói quen ẩm thực
Australia là đất nước của những người ăn thịt: người dân Australia ăn một lượng thịt tính trung bình trên đầu người nhiều hơn bất kỳ nước nào khác trên thế giới, chỉ trừ có New Zealand. Theo chế độ ăn truyền thống thì cả ba bữa ăn chính trong một ngày đều có thịt: bữa sáng có thịt cừu nướng hoặc thịt bò bít tết; bữa trưa thì dùng thịt nguội; sau đó là bữa tối với thịt cừu quay và nướng, thịt bò hoặc thịt lợn. Tuy nhiên do ảnh hưởng những cách thức nấu ăn mới của dòng người di cư và ý thức về sức khoẻ ngày càng gia tăng đã làm thay đổi dần khẩu vị thích thịt của người Australia.
Thói quen thích ăn thịt của người Australia cũng không giống như dân Mỹ, Nhật Bản và nhiều nước khác. Người dân Australia thích ăn loại thịt gia súc được thả nuôi trên đồng cỏ hơn là nuôi trong chuồng vì họ quan niệm rằng gia súc được nuôi thả trên đồng cỏ do vận động sẽ cho chất lượng thịt ngon hơn, bổ dưỡng hơn do nó ít lẫn mỡ. Từ thập niên 1960, nền ẩm thực Australia đã có sự thay đổi cùng với làn sóng những người nhập cư từ rất nhiều nước. Món ăn ngoại quốc cũng xâm nhập vào các gia đình Australia. Chạn thức ăn trong gia đình Australia có cất nhiều mì sợi, gạo của Trung Quốc và Việt Nam, trong tủ lạnh cất giữ gia vị của Trung quốc, các loại gia vị của Việt Nam cũng rất được ưa chuộng tại Australia nhưng do chưa đảm bảo yêu cầu
chất lượng nên các sản phẩm của Việt Nam lại được Australia nhập từ Thái Lan. Người dân Australia ngày nay đã thay những bữa ăn ê hề thịt bằng ngũ cốc, trái cây tươi và bánh ngọt. Họ thích những loại sản phẩm được nuôi trồng tự nhiên, có chất lượng đảm bảo cùng các tiêu chí ―xanh và sạch‖, những sản phẩm nhập khẩu thường phải thực hiện các điều luật kiểm dịch chặt chẽ.
2.1.3. Văn hoá kinh doanh của Australia.
Australia là thị trường rộng lớn, hàng Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này mới chiếm tỷ trọng nhỏ so với nhu cầu nhập khẩu của họ. Để thâm nhập được nhiều vào thị trường Australia ngoài đảm bảo những yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng, mẫu mã bao bì thì vấn đề đầu tiên các doanh nghiệp tiên phong trong việc xuất khẩu hàng hoá sang Australia muốn lưu ý các doanh nghiệp Việt Nam là: Nắm vững những đặc tính tập quán tiêu thụ của người dân Australia; và đặc biệt phải thông hiểu các tập quán kinh doanh của đất nước này.
2.1.3.1. Các thông lệ trong kinh doanh.
Giờ làm việc.
Người Australia có một tuần làm việc thông thường từ thứ Hai cho tới thứ Sáu, thời gian làm việc từ 09.00 giờ cho tới 17.30, ngày thứ Bảy từ 09.00 đến 12.00. Riêng các cửa hàng mở cửa muộn (đến 21.00) có ở Sydney, Perth và Darwin vào thứ Năm và ở Melbourne, Brisbane, Hobart và Canberra vào thứ Sáu. Ngân hàng làm việc từ 09.30 đến 16.30 từ thứ Hai đến thứ Năm và từ 09.30 đến 17.00 ngày thứ Sáu.
Trang phục
Ở Australia, sự kết hợp giữa truyền thống và đặc điểm địa lý chi phối những quy tắc về ăn mặc trong kinh doanh nhưng những tiêu chuẩn trang phục của Anh được coi là phổ biến nhất. Theo truyền thống Anh, một bộ lễ phục gồm áo sơmi trắng,