MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo Báo Thanh Niên (2006): “Cộng đồng sử dụng tiếng Anh trên toàn cầu đã lên đến con số gần 2 tỷ người. Các kho tài liệu, thư viện, báo cáo khoa học, phát minh… được viết hoặc dịch sang tiếng Anh để phổ biến rộng rãi. Hơn 10 tỷ trang web trên thế giới có sử dụng tiếng Anh làm phương tiện truyền thông, quảng bá, trao đổi thông tin, học tập và nghiên cứu”. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011 của Ðại hội XI của Ðảng Cộng sản Việt Nam) đã xác định một trong những phương hướng cơ bản phải là chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Sự thật là chúng ta đã tham gia vào một sân chơi thế giới khi chính thức gia nhập WTO năm 2006. Tiếng Anh trở thành một giải pháp hữu hiệu để làm giàu kiến thức, học tập suốt đời, mở rộng cơ hội giao lưu quốc tế, tạo nên chất lượng của nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay. Chính vì vậy, việc giảng dạy và học tập tiếng Anh có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của quốc gia.
Tuy nhiên, chất lượng học tập và giảng dạy tiếng Anh ở nước ta còn nhiều vấn đề. Trong nghiên cứu “Làm thế nào để cải thiện kỹ năng nói tiếng Anh cho sinh viên”, Hồ Minh Thu (2006) cho biết một số kết quả của khảo sát thực trạng về năng lực tiếng Anh của sinh viên không chuyên ngữ tại hai trường đại học thành viên của đại học Đà Nẵng như sau: “các kỹ năng ngôn ngữ của sinh viên còn rất hạn chế, đặc biệt là các kỹ năng nghe và nói; đại bộ phận sinh viên (67%) không có thói quen hoặc không thể giao tiếp với nhau bằng tiếng Anh…” Mặc dù, giảng dạy tiếng Anh hiện nay rất được các trường đại học xem trọng và có mặt trong tất cả các chương trình đào tạo, khả năng
tiếng Anh của sinh viên sau khi ra trường nhìn chung vẫn chưa tốt. Tạp chí Nhà Quản Lý (26.03.2006) cho biết chỉ có 40% sinh viên nước ta có thái độ tích cực đối với việc học, phần còn lại học chỉ để học chứ thật sự không đầu tư vào đó. Một trong những nguyên nhân góp phần vào tình trạng này là động lực học tập của người học chưa cao.
Có thể bạn quan tâm!
- Ảnh hưởng của phương pháp giảng dạy đến động lực học tiếng anh của sinh viên năm thứ nhất khối ngành kinh tế đại học Văn Lang - 1
- Phương Giáp Giảng Dạy Nói Chung Và Phương Pháp Giảng Dạy Tiếng
- Động Lực Học Tập Nói Chung Và Động Lực Học Tiếng Anh
- Mô Hình Arcs Về Thiết Kế Động Lực
Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.
Trong lĩnh vực giảng dạy tiếng Anh, Kiều Văn Thịnh (2000) cho rằng “mọi phương pháp giảng dạy cho dù tân kỳ như thế nào mà cung cách người học ù lì, tất cả sẽ không thay đổi. Người học không tự buộc mình phải học thì các phương pháp giảng dạy có liên tục cải tiến cũng chỉ là món đồ chơi cầu kỳ, đắc tiền, vô tác dụng.” Điều này cũng tương tự như cải tiến phương pháp mà không dựa trên những quy luật về tâm lý học tập của người học thì chắc chắn thất bại. Slavin (2008) khẳng định “một trong những thành phần có tính then chốt nhất trong việc học là động lực học tập…mọi sinh viên đều có động lực học tập”. Các quốc gia có nền giáo dục phát triển rất quan tâm đến động lực học tập người học. Vấn đề này đã được nghiên cứu rất nhiều, hình thành nên một hệ thống lý thuyết vững chắc và ứng dụng vào giảng dạy từ lâu trên thế giới như các thuyết Học tập hành vi (Behavioral Learning Theory), thuyết nhu cầu của Maslow, thuyết Quy kết (Attribution Theory), thuyết Kỳ vọng (Expectancy Theory)… Các thuyết này cung cấp những thông tin: giáo viên có thể tạo nên sự khác biệt rất lớn ở động lực học tập người học và động lực học tập đóng vai trò quyết định chất lượng học tập. Động lực học tập tạo nên một nguồn sức mạnh, một nguồn năng lượng mạnh mẽ khiến chủ thể hành động và duy trì hành động để đạt được kết quả. Nhiều nhà khoa học nhận định rằng học sinh chịu học hay không liên quan rất nhiều đến động lực học tập. Nếu người học có động lực, chất lượng học tập sẽ vượt trội. Theo Slavin
(2008), một trong những yếu tố làm tăng động lực của người học là phương
pháp giảng dạy của giáo viên.
Acsimet có câu “Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nhấc bổng trái đất lên!” Acsimet cho thấy phương pháp tốt có thể làm nên những chuyện phi thường. Trong khi giáo dục có thể tạo nên điều kỳ diệu đối với kết quả đào tạo nguồn nhân lực thì phương pháp giảng dạy lại có thể tạo nên đòn bẩy nâng cao chất lượng giáo dục. Tác giả Trần Lê Hữu Nghĩa (2008) nhìn nhận khá toàn diện về tình hình giảng dạy và học tập tại các trường đại học nước ta: “giáo viên vẫn là người ra quyết định, là nhân vật trung tâm của lớp học… Sinh viên Việt Nam không được dạy bằng phương pháp tích cực, chủ yếu là nghe giảng và ghi chép…thiếu sự tương tác. Vì vậy, thay đổi phương pháp giảng dạy là vấn đề sống còn. Văn kiện Hội nghị lần thứ II Ban chấp hành trung ương khóa VIII (1997) thể hiện rò quyết tâm tận dụng đòn bẩy phương pháp: “đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy - học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, nhất là sinh viên đại học…” Keller (1984) cho rằng giáo viên không thể khiến sinh viên chịu học nhưng họ có thể phát triển những chiến lược tạo môi trường thúc đẩy sinh viên học tập. Theo mô hình ARCS về thiết kế động lực, Keller (1984) chứng minh rằng những hành vi, hoạt động nằm trong phương pháp giảng dạy của giáo viên có thể gây sự chú ý, sự thích thú, sự tự tin, sự thoả mãn của người học. Đó là những yếu tố mà Keller khẳng định sẽ làm tăng cường và duy trì động lực học tập của người học. Slavin (2008) cung cấp những thông tin khẳng định giáo viên có thể tạo nên sự khác biệt rất lớn ở động lực học tập người học. Những chiến lược mà nhà giáo dục có thể sử
dụng nhằm tăng động lực học tập người học như phải khơi dậy sự hứng thú học tập, trí tò mò, sử dụng đa dạng các hình thức trình bày, giảng bài thú vị, giúp người học thiết lập những mục tiêu của chính mình, cung cấp những phản hồi rò ràng, tức thời và thường xuyên…
Trong lĩnh vực giảng dạy tiếng Anh, phương pháp giảng dạy đặc biệt có những tác động mạnh mẽ đến chất lượng học tập, nhất là đối với đặc điểm sinh viên Việt Nam “có những phẩm chất gây trở ngại cho việc học ngôn ngữ như nhút nhát, thụ động, không thích cộng tác với bạn bè, tính tự giác học tập và năng động chưa cao… (Nguyễn Thị Thuý Hồng, 2009). Nguyễn Thị Thuý Hồng (2009) đề xuất phương pháp giảng dạy tiếng Anh phải thay đổi theo hướng cho sinh viên thực hành theo nhóm, theo cặp, xen kẽ các trò chơi trong các giờ giảng, thiết kế các bài tập theo hướng tạo tính chủ động sáng tạo…nhằm khắc phục những trở ngại trên. Như vậy, phương pháp giảng dạy nói chung, phương pháp dạy tiếng Anh nói riêng, đóng vai trò lớn trong việc thúc đẩy động lực học tập, từ đó làm thay đổi hiệu quả học tập tiếng Anh của người học. Cần phải chú trọng và quan tâm đến phương pháp giảng dạy, thay đổi phương pháp giảng dạy dựa trên những quy luật động lực học tập của người học là yếu tố then chốt.
Trường đại học Văn Lang là một trong những trường đại học lớn, có trên 10.000 sinh viên, đào tạo nhiều ngành nghề quan trọng, góp phần nâng cao trình độ dân trí, đào tạo nguồn lao động đa dạng và cần thiết cho đất nước. Nguồn nhân lực do Văn Lang đào tạo là một trong những nguồn lao động tri thức trẻ quan trọng của đất nước. Trong bối cảnh chung, việc giảng dạy tiếng Anh tại trường cũng còn nhiều vấn đề chủ quan cũng như khách
quan như từ cơ sở vật chất, phương pháp giảng dạy của giáo viên, đặc điểm của sinh viên…Chất lượng giảng dạy tiếng Anh chưa đồng đều, có giáo viên dạy hay nhiệt tình nhưng cũng có giáo viên dạy chưa tốt và thụ động. Nhiều sinh viên rụt rè, nhút nhát không tích cực tham gia vào việc học. Chất lượng tiếng Anh đầu vào chưa đồng đều, có sinh viên học theo hệ ba năm, có sinh viên học theo hệ bảy năm được xếp vào học cùng lớp. Một số sinh viên ý thức được tiếng Anh quan trọng như thế nào cho công việc tương lai nhưng một số khác lại học cho có, học cho qua. Một số sinh viên chán học tiếng Anh trên lớp do giảng viên chưa khơi gợi được sự hứng thú học tập. Các vấn đề này đã khiến cho Văn Lang không ngừng nổ lực cải thiện chất lượng giảng dạy và học tập tiếng Anh tại trường. Từ năm học 2008-2009, công nghệ thông tin được ứng dụng mạnh mẽ và có hiệu quả, hỗ trợ cho việc dạy, học, kiểm tra, đánh giá ở tất cả các khoa. Trong nhiều năm, trường cũng thấy được các lớp tiếng Anh có sinh viên ở nhiều trình độ khác nhau, gây cảng trở cho việc giảng dạy, họ đã thiết kế và thực hiện các kỳ thi xếp lớp cho sinh viên mới vào trường trong nhiều năm gần đây. Tuy nhiên, các vấn đề trên vẫn còn tồn tại.
Trong lĩnh vực nghiên cứu vấn đề dạy và học tiếng Anh tại Việt Nam, đã có nhiều nghiên cứu nhưng thường thiên về tìm hiểu thực trạng. Một số bài viết, bài nghiên cứu quan tâm đến việc cải tiến phương pháp giảng dạy tiếng Anh như nghiên cứu “Một số chiến lược nhằm nâng cao chất lượng dạy và học tiếng Anh cho học viên lớn tuổi ở khoa tiếng Anh” của tác giả Nguyễn Thị Mỹ Phượng năm 2006, “Thuận lợi, khó khăn và giải pháp trong việc ứng dụng công nghệ vào giảng dạy ngoại ngữ” của tác giả Nguyễn Văn Long năm 2009, “Đa dạng hoá hình thức giảng dạy ngoại ngữ bằng phương pháp dạy học theo dự án” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Thanh năm 2006… nhưng
chưa có nghiên cứu nào tìm hiểu mối quan hệ giữa phương pháp giảng dạy và động lực học tiếng Anh. Tại Văn Lang, nghiên cứu về lĩnh vực này hoàn toàn không có.
Xuất phát từ nhu cầu, tính thiếu yếu của vấn đề trên, nghiên cứu này được tiến hành nhằm tìm hiểu mối quan hệ giữa phương pháp giảng dạy và động lực học tiếng Anh, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu ảnh hưởng của phương pháp giảng dạy tiếng Anh của giáo viên đến động lực học tiếng Anh của sinh viên năm nhất- khối ngành kinh tế tại trường đại học Văn Lang.
3. Ý nghĩa của nghiên cứu
Nghiên cứu cung cấp thông tin về hoạt động giảng dạy và học tập tiếng Anh của sinh viên năm nhất tại đại học Văn Lang, góp phần cải tiến chất lượng giảng dạy và học tập tiếng Anh nói chung và tại trường Văn Lang nói riêng.
Giáo viên tiếng Anh có thể tham khảo kết quả nghiên cứu này phục vụ cho công tác giảng dạy, chọn lựa các hoạt động phù hợp nhằm giúp sinh viên học tập tốt hơn.
Các nhà quản lý giáo dục có thể tham khảo kết quả nghiên cứu này nhằm đưa ra quyết định khuyến khích, hỗ trợ hoạt động giảng dạy nào của giáo viên.
Nghiên cứu gợi mở những hướng nghiên cứu sâu hơn trong lĩnh vực
này.
4. Định nghĩa phương pháp giảng dạy và động lực học tập
Trong nghiên cứu này, phương pháp giảng dạy được định nghĩa là các hoạt động trong và ngoài lớp học mà giáo viên sử dụng nhằm truyền đạt kiến thức cho sinh viên và đạt được mục tiêu môn học.
Các hoạt động được đề cập ở đây cũng là muốn nói đến bất cứ hành vi, thủ thuật, kỹ năng, lời nói, phương tiện, chiến lược mà giáo viên sử dụng nhằm để giảng dạy hoặc giúp sinh viên đạt được kiến thức (lý thuyết và kỹ năng nghe, nói, đọc, viết) tiếng Anh ngay tại lớp học hoặc ở ngoài môi trường lớp học. Các hành vi của giáo viên được nhấn mạnh hơn. Bất cứ hành vi nào của giáo viên cho dù chỉ là lời nói khuyến khích cũng là phương pháp giảng dạy. Tuy nhiên, trong khi sử dụng phương pháp giảng dạy tiếng Anh như là một biến, sự khác nhau giữa các nhóm hành vi của giáo viên trong lớp học được đưa ra như sau:
Tạo nhiều hoạt động sôi nổi
Sử dụng nhiều phương tiện để giảng bài
Đánh giá nhiều kỹ năng
Cung cấp nhiều phản hồi cho SV
Trong nghiên cứu này, động lực học tiếng Anh của sinh viên được định nghĩa như là một quá trình thúc đẩy sinh viên thực hiện, duy trì hành vi học tập và thái độ học tập liên tục.
Động lực học tiếng Anh là một yếu tố rất khó đo lường, vì vậy nghiên cứu này chỉ dựa trên một số biểu hiện hành vi và thái độ học tập của người học để đánh giá họ có động lực học môn này hay không. Dựa vào định nghĩa động lực học tiếng Anh ở trên, một sinh viên có động lực học tiếng Anh phải có những hành vi tham gia sâu vào môn học, thực hiện tốt các yêu cầu của giáo viên, có sự yêu thích môn học, tập trung cao độ và có nhiều hoạt động bên trong hoặc bên ngoài lớp học hỗ trợ đắc lực cho việc học tiếng Anh. Đó là những hành vi như đi học đúng giờ, có mặt ở lớp học thường xuyên, ghi chép bài học đầy đủ, lắng nghe giáo viên giảng bài, làm bài tập/chuẩn bị bài trước khi đến lớp, nghiên cứu thêm tài liệu tham khảo ngoài sách giáo khoa, ôn lại bài lúc có thời gian rãnh, tham gia câu lạc bộ tiếng Anh, nghe nhạc/xem TV/xem phim tiếng Anh, đầu tư nhiều thời gian học tiếng Anh, tiếp thu bài tốt, tập trung cao vào học tiếng Anh, muốn tranh luận về bài học, phát biểu ý kiến trong lớp, tham gia thảo luận nhóm/thuyết trình/trò chơi, thảo luận thêm với giáo viên/bạn bè nếu có điều chưa hiểu, nghĩ về bài học/bài giảng môn Anh văn ở ngoài lớp học, thái độ thích đến lớp, nuối tiếc nếu mất giờ học, thích môn học tiếng Anh.... Mức độ sinh viên thực hiện các hành vi và thái độ trên được xem xét để xác định động lực học tiếng Anh của họ như thế nào.
5. Câu hỏi nghiên cứu
Nghiên cứu này khảo sát thông tin từ giáo viên và sinh viên nhằm trả lời câu hỏi nghiên cứu: Phương pháp giảng dạy ảnh hưởng như thế nào đến