2.6.2. Mô hình và giả thuyết nghiên cứu
Mối quan hệ giữa hỗ trợ xã hội và tự chủ chăm sóc
Hỗ trợ xã hội được định nghĩa như nhận thức hoặc trải nghiệm của một người khi họ được quan tâm, được trở thành một phần của mạng lưới xã hội và nhận được sự ủng hộ từ những người xung quanh khi họ cần giúp đỡ (House và cộng sự, 1988; Taylor, 2012). Tuy nhiên hầu hết các nghiên cứu đều cho thấy rằng cảm nhận về mức độ hỗ trợ xã hội chứng minh tác động rõ ràng hơn so với hỗ trợ xã hội được đo lường một cách khách quan (Banrera, 2000). Do vậy, nghiên cứu này đo lường nhận thức về hỗ trợ xã hội (perceived social support) từ 3 đối tượng: hỗ trợ từ gia đình (vợ chồng, họ hàng); hỗ trợ không chính thức từ những người xung quanh (bạn bè, hàng xóm, đồng nghiệp); hỗ trợ từ các chương trình, tổ chức cộng đồng (nhóm xã hội, tình nguyện viên chăm sóc, cộng đồng chăm sóc, các tổ chức phi chính phủ…) theo thang đo hỗ trợ gia đình của Dunst và cộng sự (1984), xem xét tác động của ba nguồn lực hỗ trợ này tới các khía cạnh của mức độ tự chủ chăm sóc.
Theo lý thuyết quá trình căng thẳng của Pearlin và cộng sự (1990), hỗ trợ xã hội được xem như một yếu tố nguồn lực xã hội ảnh hưởng tích cực tới quá trình căng thẳng của một người. Dựa trên quan điểm của lý thuyết này, một số kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ hỗ trợ xã hội càng lớn càng làm giảm kết quả chăm sóc tiêu cực, cụ thể như giảm mức độ căng thẳng, gánh nặng chăm sóc bao gồm cả gánh nặng tâm lý và phi tâm lý của người chăm sóc (Han và cộng sự, 2014; Shieh, 2012). Dưới góc độ kết quả chăm sóc tích cực, Shirai và cộng sự (2009), Santo và cộng sự (2007), Shirai, Silverberg, và Kenyon (2009), Plata (2006) đều cho thấy hỗ trợ xã hội như một nguồn lực quan trọng giúp cải thiện các kết quả chăm sóc tích cực cho người chăm sóc như sức khỏe, chất lượng cuộc sống của họ hay giúp thúc đẩy và duy trì cảm giác đạt được của người chăm sóc. Ngoài ra, một số nghiên cứu cũng chỉ ra mối quan hệ giữa sự hỗ trợ từ các tổ chức cộng đồng và hành vi chủ động của người chăm sóc, như nghiên cứu của Yu và cộng sự (2013). Nghiên cứu này chứng minh rằng sự hỗ trợ từ cộng đồng giúp người chăm sóc có thể đưa ra các chiến lược chủ động đối mặt với những khó khăn của công việc chăm sóc, và thay đổi thái độ dẫn tới kết quả tiêu cực liên quan tới công việc chăm sóc.
Do vậy, trong nghiên cứu này tác giả đưa ra giả thuyết với mức độ hỗ trợ xã hội lớn sẽ là nguồn lực giúp người chăm sóc đạt được mức độ tự chủ tốt hơn ở cả ba khía cạnh: hiểu biết, thái độ, hành vi. Cụ thể, nghiên cứu sẽ làm rõ tác động của hỗ trợ xã hội tới từng khía cạnh của tự chủ chăm sóc bao gồm thái độ, hiểu biết, hành vi. Đồng thời
sẽ làm rõ được mức độ tác động của hỗ trợ xã hội cụ thể từ ba nguồn lực chủ yếu mà người chăm sóc nhận thấy trong quá trình chăm sóc người cao tuổi tại gia đình bao gồm nguồn lực hỗ trợ từ gia đình, hỗ trợ từ những người xung quanh (hàng xóm, bạn bè, đồng nghiệp) và hỗ trợ từ cộng đồng tổ chức Nhà nước tới mức độ tự chủ chăm sóc của người chăm sóc người cao tuổi tại gia đình.
Giả thuyết 1: Hỗ trợ xã hội có mối quan hệ thuận chiều với tự chủ chăm sóc.
Mối quan hệ giữa giá trị gia đình và tự chủ chăm sóc
Có thể bạn quan tâm!
- Tổng Quan Các Lý Thuyết Về Kết Quả Chăm Sóc Gia Đình
- Tổng Quan Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Tới Tự Chủ Chăm Sóc
- Một Số Nghiên Cứu Khác Có Liên Quan Tới Tự Chủ Chăm Sóc
- Các Thang Đo Biến Độc Lập Và Biến Phụ Thuộc Được Sử Dụng
- Các Chỉ Báo – Mã Hóa Cho Thang Đo Tình Trạng Sức Khỏe Nct
- Thống Kê Mô Tả Mẫu Về Mức Độ Tự Chủ Chăm Sóc
Xem toàn bộ 149 trang tài liệu này.
Ảnh hưởng giá trị gia đình tới tự chủ chăm sóc
Giá trị gia đình – một khía cạnh của giá trị văn hóa được định nghĩa là “sự đồng nhất mạnh mẽ và gắn bó của cá nhân với gia đình của họ, và niềm tin về lòng trung thành, sự có đi có lại và sự đoàn kết giữa các thành viên trong cùng một gia đình” (Sabogal và cộng sự, 1987). Theo lý thuyết quá trình căng thẳng của Pearlin và cộng sự (1990), giá trị gia đình là một yếu tố văn hóa nền tảng tác động tới việc hình thành nguồn lực cá nhân khi đối mặt với khó khăn của một người, điều này sẽ giúp thúc đẩy các kết quả tích cực liên quan tới quá trình chăm sóc. Cụ thể, trong phạm vi luận án này với bối cảnh chăm sóc người cao tuổi tại gia đình, yếu tố giá trị gia đình (một trong những khía cạnh của nền tảng văn hóa) sẽ tác động tới kết quả chăm sóc tích cực, cụ thể ở khía cạnh tự chủ chăm sóc của người chăm sóc.
Các kết quả của Phar và cộng sự (2014), Meyer và cộng sự (2015), Ying (2007) cho thấy giá trị gia đình có mối liên hệ với một số khía cạnh kết quả tích cực đối với người chăm sóc. Phar và cộng sự (2014) cho thấy niềm tin về chuẩn mực trách nhiệm gia đình, niềm tin về sự gần gũi kết nối gia đình quyết định mức độ mà người chăm sóc cảm thấy công việc chăm sóc như một trải nghiệm tất yếu và thông thường của cuộc sống và điều này giúp tạo động lực cho người chăm sóc. Kết quả này cũng tương tự như kết quả nghiên cứu của Dong & Xu (2016) tại Trung Quốc về giá trị đạo đức con cái (filial piety) (một phần của giá trị văn hóa - như đã được đề cập trong khái niệm về giá trị gia đình). Giá trị gia đình có mối liên hệ chặt chẽ với giá trị đạo đức con cái, cả hai khía cạnh văn hóa này đều bắt nguồn từ quan điểm về sự có đi có lại trong mối quan hệ giữa cha mẹ - con cái hoặc giữa các mối quan hệ gần gũi khác trong gia đình. Cụ thể, con cái có xu hướng sẽ đền đáp lại tình yêu và sự nuôi nấng hỗ trợ của cha mẹ khi lớn lên (Lee & Szinovacz, 2016).
Ngoài ra, một số bằng chứng ban đầu cho thấy các giá trị niềm tin văn hóa không chỉ ảnh hưởng tới động lực của người chăm sóc mà còn ảnh hưởng tích cực tới hành vi của người chăm sóc (Cheng & Chan, 2006; Kao & Travis, 2005; Pang et al., 2002; Pierce, 2001). Hay trong nghiên cứu định tính của Meyer và cộng sự (2015) trong bối cảnh chăm sóc cho người bệnh mất trí nhớ tại Việt Nam cũng cho thấy giá trị đạo đức con cái –) được xem là một yếu tố nguồn lực gia đình, sẽ giúp người chăm sóc dễ dàng hơn trong việc chấp nhận vai trò chăm sóc và khuyến khích các hành vi hỗ trợ tích cực với người được chăm sóc.
Nhìn dưới một góc độ khác, giá trị gia đình được xem như một khía cạnh cụ thể của chủ nghĩa tập thể, và những người nắm giữ niềm tin về giá trị gia đình lớn, đồng nghĩa với việc họ sẽ đề cao và ưu tiên các mối quan hệ gia đình, muốn dành thời gian cho các thành viên gia đình, tuân theo các nghĩa vụ gia đình, biết định hướng và cân bằng các mục tiêu cá nhân của họ để đạt được sự hòa hợp với mục tiêu chung của tổ chức, mà ở đây chính là gia đình của họ (Markus & Kitayama, 1991; Triandis, 1990, 1995). Do vậy, giá trị gia đình sẽ trở thành yếu tố động lực thúc đẩy người chăm sóc chủ động tham gia, gắn bó nhiều hơn công việc chăm sóc thành viên gia đình, tự tin làm tốt vai trò chăm sóc và nỗ lực để làm tốt công việc chăm sóc đó, hướng tới kết quả tự chủ chăm sóc NCT tại gia đình.
Như vậy, dựa trên lý thuyết quá trình căng thẳng của Pearlin và cộng sự (1990) và các nghiên cứu liên quan, tác giả đưa ra giả thuyết cả hai khía cạnh của giá trị gia đình bao gồm niềm tin về trách nhiệm gia đình và sự hỗ trợ, gắn kết gia đình như một yếu tố động lực quan trọng sẽ có tác động trực tiếp và thuận chiều tới kết quả tự chủ chăm sóc của người chăm sóc NCT tại gia đình.
Giả thuyết 2a: Niềm tin về trách nhiệm gia đình có mối quan hệ thuận chiều với tự chủ chăm sóc
Giả thuyết 2b: Niềm tin về sự hỗ trợ, gắn kết gia đình có mối quan hệ thuận chiều với tự chủ chăm sóc
Vai trò trung gian của xung đột công việc – chăm sóc trong mối quan hệ giữa giá trị gia đình và tự chủ chăm sóc
Xung đột công việc – chăm sóc liên quan tới ảnh hưởng của công việc tới vai trò chăm sóc (Carlson & Frone, 2003), cụ thể do thời gian, áp lực từ công việc mà người chăm sóc nhận thấy không thể hoàn thành được các nhiệm vụ chăm sóc của họ. Theo lý
thuyết quá trình căng thẳng của Pearlin và cộng sự (1990), giá trị gia đình là một yếu tố văn hóa nền tảng tác động tới việc hình thành nguồn lực cá nhân khi đối mặt với khó khăn của một người. Cũng theo lý thuyết này, nguồn lực cá nhân cũng như các yếu tố nền tảng tác động tới nguồn lực này sẽ ảnh hưởng tới các tác nhân gây căng thẳng, làm thay đổi các kết quả của quá trình căng thẳng. Cụ thể, trong phạm vi luận án này với bối cảnh chăm sóc người cao tuổi tại gia đình, yếu tố giá trị gia đình (một trong những khía cạnh của nền tảng văn hóa) sẽ tác động tới tác nhân gây căng thẳng thứ cấp, cụ thể là xung đột công việc – chăm sóc, từ đó ảnh hưởng tới kết quả tự chủ chăm sóc của người chăm sóc. Dựa trên quan điểm của lý thuyết này, có thể lý giải rằng, những người chăm sóc khi phải đảm nhận cùng lúc hai vai trò, dẫn tới hình thành tác nhân gây căng thẳng là xung đột công việc – chăm sóc, tuy nhiên kết quả chăm sóc vẫn có sự khác biệt đối với các nhóm người chăm sóc khác nhau. Hay nói một cách đơn giản hơn, với cùng hai người chăm sóc đều phải đảm nhận cùng lúc hai vai trò (vai trò chăm sóc và làm việc), nhưng kết quả chăm sóc lại có sự khác biệt. Vậy thì yếu tố gì dẫn tới sự khác biệt này? Việc phân tích ảnh hưởng của một trong các yếu tố nền tảng giúp hình thành nguồn lực cá nhân của người chăm sóc, cụ thể là nền tảng niềm tin giá trị gia đình sẽ hỗ trợ giải thích được cơ chế tác động của nó tới tác nhân xung đột công việc – chăm sóc, từ đó giúp người chăm sóc đạt được kết quả tích cực liên quan tới tự chủ chăm sóc.
Rất ít các tác giả đề cập đến vai trò trung gian của xung đột công việc – chăm sóc trong mối quan hệ giữa giá trị gia đình và tự chủ chăm sóc. Tuy nhiên một số các nghiên cứu kiểm định tác động của các giá trị nền tảng văn hóa tới xung đột công việc – chăm sóc như Aycan (2008); Mortazavi và cộng sự (2009) hay kiểm định tác động của xung đột công việc – chăm sóc tới kết quả chăm sóc như Gates & Akabas (2012), Gordon và cộng sự (2012), Krisor & Rowold (2014). Một số nghiên cứu dưới đây sẽ làm rõ giả thuyết liên quan vai trò trung gian của xung đột công việc – chăm sóc trong mối quan hệ giữa giá trị gia đình và tự chủ chăm sóc.
Thứ nhất, nghiên cứu vai trò trung gian của xung đột công việc – gia đình hay xung đột gia đình – công việc trong mối quan hệ giữa văn hóa và các kết quả liên quan tới cả công việc và gia đình của người lao động được đề cập đến trong một vài nghiên cứu, điển hình như mô hình nghiên cứu của Aycan (2008) và Krisor và Rowold (2014). Mô hình của Aycan (2008) nghiên cứu tác động của văn hóa tới mức độ hạnh phúc liên quan tới gia đình (well-being in family domain) thông quan biến trung gian xung đột công việc, gia đình. Mô hình nghiên cứu này đề cập tới các biến văn hóa như chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tập thể, v.v. Nghiên cứu chỉ ra rằng, những người có xu hướng theo
chủ nghĩa tập thể thì thường cảm thấy có thể dễ dàng cân bằng giữa vai trò công việc và gia đình, từ đó làm tăng mức độ hạnh phúc liên quan tới gia đình của họ.
Nghiên cứu của Krisor & Rowold (2014) cũng hướng đến vai trò trung gian của xung đột công việc – chăm sóc tuy nhiên các nghiên cứu này chủ yếu dự đoán các yếu tố thuộc về tổ chức ảnh hưởng tới kết quả đối với người chăm sóc thông qua biến trung gian xung đột công việc – chăm sóc. Cụ thể, tác giả chỉ ra rằng văn hóa thân thiện gia đình của tổ chức ảnh hưởng tới sự tự tin về sức khỏe của người chăm sóc thông qua biến trung gian xung đột công việc – chăm sóc.
Thứ hai, theo lý thuyết quá trình căng thẳng của Pearlin và cộng sự (1990), xung đột công việc – gia đình được coi là tác nhân gây căng thẳng, ảnh hưởng tiêu cực tới kết quả chăm sóc. Tác động này đã được đề cập đến trong một số nghiên cứu của Gordon và cộng sự (2012), Opie & Henn (2013), Wang và cộng sự (2010). Cụ thể, Gordon và cộng sự (2012) chỉ ra rằng xung đột công việc – chăm sóc và xung đột chăm sóc – công việc có tác động thuận chiều với gánh nặng chăm sóc NCT tại gia đình. Mẫu gồm 583 nữ giới đang làm việc nhưng đồng thời vẫn chăm sóc cho người cao tuổi tại gia đình với mức độ phụ thuộc ít nhất một hoạt động sinh hoạt hàng ngày (ăn, mặc, ở…) hoặc 2 hoặc nhiều hơn hoạt động chức năng cơ bản (mua sắm, đi lại, nấu nướng…). Ngoài ra một số khác đề cập tới xung đột công việc – gia đình có mối liên hệ với các kết quả liên quan đến thái độ hành vi tích cực của người lao động trong công việc. Chẳng hạn như nghiên cứu của Opie & Henn (2013) cho thấy xung đột công việc – gia đình có tác động nghịch chiều tới sự gắn kết đối với công việc (work engagement). Trong đó, sự gắn kết đối với công việc được hiểu như một trạng thái suy nghĩ tích cực liên quan tới công việc, đặc trưng bởi cảm giác đầy năng lượng đối với công việc, sự gắn bó, tập trung vào công việc và sự cống hiến hết mình cho công việc. Hay như Wang và cộng sự (2010) chỉ ra rằng xung đột gia đình – công việc có tác động nghịch chiều tới mức độ tự tin đối với công việc trong bối cảnh người lao động tại tổ chức. Grover & Crooker ( 2006) và Kirchmeyer (1995) cũng cho thấy những tác động giúp người lao động cân bằng vai trò công việc – gia đình sẽ khuyến khích cải thiện thái độ và hành vi liên quan tới công việc của họ. Cũng dựa trên nền tảng lý thuyết của Pearlin và cộng sự (199), tuy nhiên luận án này nghiên cứu mối quan hệ đặt trong bối cảnh lao động tại gia đình, tác giả đưa ra giả thuyết về mối quan hệ nghịch chiều giữa xung đột công việc – chăm sóc và kết quả tự chủ chăm sóc của người chăm sóc NCT tại gia đình.
Thứ ba, xem xét liên hệ giữa các giá trị nền tảng văn hóa với xung đột công việc
– chăm sóc có Aycan (2008); Mortazavi và cộng sự (2009) đã đề cập tới khía cạnh văn
hóa liên quan chủ nghĩa tập thể và chủ nghĩa cá nhân. Theo đó, những người theo chủ nghĩa tập thể thì cảm thấy cân bằng được ảnh hưởng của công việc tới gia đình. Giá trị gia đình được xem là một khía cạnh cụ thể của chủ nghĩa tập thể, với việc coi gia đình như một tổ chức, và đề cao và ưu tiên việc gắn bó và hỗ trợ giữa các thành viên trong tổ chức đó (Abdou và cộng sự, 2010; Knight & Sayegh, 2009; Schwartz và cộng sự, 2010). Do vậy, những người nắm giữ niềm tin về giá trị gia đình lớn, đồng nghĩa với việc họ sẽ đề cao và ưu tiên các mối quan hệ gia đình, muốn dành thời gian cho các thành viên gia đình, tuân theo các nghĩa vụ gia đình, biết định hướng và cân bằng các mục tiêu cá nhân của họ để đạt được sự hòa hợp với mục tiêu chung của tổ chức, mà ở đây chính là gia đình của họ (Markus & Kitayama, 1991; Triandis, 1990, 1995). Với giả định này, những người nắm giữ niềm tin giá trị gia đình lớn, ưu tiên gia đình sẽ cảm thấy bớt áp lực đối với việc vừa đáp ứng nhu cầu công việc (mục tiêu cá nhân) vừa đảm nhiệm vai trò chăm sóc (mục tiêu gia đình), bởi họ có thể dễ dàng hơn chấp nhận vai trò chăm sóc của họ, và đặt mục tiêu chăm sóc lên trên mục tiêu công việc, có thể sẵn sàng hy sinh các mục tiêu cá nhân (chẳng hạn như phấn đấu được khen thưởng trong công việc) để dành thời gian và ưu tiên cho công việc chăm sóc hoặc tìm mọi cách để cân bằng giữa nhu cầu công việc và nhu cầu chăm sóc người thân của họ. Kết quả của việc giảm xung đột công việc – gia đình, hay nói cách khác người chăm sóc cân bằng được giữa hai vai trò này sẽ giúp bản thân họ tự tin hơn với việc chăm sóc mà họ đảm nhiệm, khuyến khích họ tích cực tham gia chủ động, nỗ lực để làm tốt vai trò chăm sóc của họ, hướng tới kết quả tự chủ chăm sóc NCT tại gia đình.
Giả thuyết 3a: Niềm tin về trách nhiệm gia đình làm giảm xung đột công việc –chăm sóc, kết quả làm tăng mức độ tự chủ chăm sóc
Giả thuyết 3b: Niềm tin về sự hỗ trợ, gắn kết gia đình làm giảm xung đột công việc –chăm sóc, kết quả làm tăng mức độ tự chủ chăm sóc
Ngoài ra, dựa trên tổng quan các yếu tố về đặc điểm người chăm sóc và đặc điểm bối cảnh chăm sóc, nghiên cứu cũng kiểm định tác động của các biến kiểm soát được chứng minh có tác động mạnh tới kết quả chăm sóc bao gồm độ tuổi, trình độ học vấn, giới tính, nghề nghiệp người chăm sóc, thời gian chăm sóc và tình trạng sức khỏe người được chăm sóc. Tình trạng sức khỏe của người được chăm sóc được đánh giá theo mức độ phụ thuộc đối với các hoạt động sinh hoạt hàng ngày (ADL) và các hoạt động chức năng cơ bản (IADL) (Katz, 1963; Lawton & Brody, 1969).
Toàn bộ mô hình nghiên cứu được thể hiện như hình dưới đây:
Hình 2.3. Mô hình nghiên cứu của đề tài
Nguồn: Nghiên cứu của tác giả
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Quy trình nghiên cứu
Luận án sử dụng cả hai phương pháp nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng. Trong đó, nghiên cứu định tính nhằm mục tiêu chuẩn hoá các khía cạnh của tự chủ chăm sóc của NCS tại gia đình ở Việt Nam, đồng thời giúp điều chỉnh thang đo và các chỉ báo cho phù hợp. Ngoài ra, nghiên cứu định tính về tự chủ chăm sóc sẽ giúp làm rõ hơn mối quan hệ giữa các biến trong mô hình, giải thích được phần nào ý nghĩa các mối quan hệ này, từ đó so sánh với kết quả nghiên cứu định lượng ở giai đoạn sau sẽ củng cố thêm cơ sở vững chắc cho mối quan hệ giữa các biến.
Kết quả định lượng dựa trên điều tra chọn mẫu tại ba miền: Miền Bắc, Miền Trung, Miền Nam sẽ giúp kiểm định mô hình và các giả thuyết nghiên cứu. Cuối cùng, kết quả này sẽ được so sánh với kết quả định tính để đánh giá phân tích đi sâu hơn các giả thuyết về mối quan hệ trong mô hình.
Quy trình được trình bày trong các bước dưới đây:
Bước 1: Tổng quan nghiên cứu và xây dựng mô hình nghiên cứu
Xuất phát từ mục tiêu nghiên cứu, tác giả tiến hành tổng quan các nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng tới kết quả chăm sóc/tự chủ chăm sóc của người chăm sóc NCT tại gia đình. Đồng thời tác giả cũng tổng quan các khái niệm và lý thuyết liên quan khi nghiên cứu kết quả chăm sóc/tự chủ chăm sóc của người chăm sóc NCT tại gia đình. Thông qua kết quả tổng quan, và nền tảng lý thuyết, tác giả xác định khoảng trống và mục tiêu nghiên cứu, mô hình và các giả thuyết liên quan.
Bước 2: Nghiên cứu định tính: phỏng vấn sâu
Phương pháp phỏng vấn sâu dựa trên 24 đối tượng hiện đang chăm sóc cho NCT tại gia đình. Kết quả phỏng vấn sâu giúp làm rõ các khía cạnh phản ánh tự chủ chăm sóc đối với người chăm sóc NCT tại Việt Nam và các khía cạnh của giá trị gia đình. Đồng thời điều chỉnh, rút gọn thang đo cho phù hợp với mục tiêu và đối tượng nghiên cứu. Ngoài ra, kết quả cũng giúp khám phá chiều tác động và vai trò của các biến trong mô hình, làm cơ sở củng cố cho mô hình nghiên cứu.
Bước 3: Nghiên cứu định lượng sơ bộ
Nghiên cứu định lượng sơ bộ được thực hiện nhằm hoàn thiện mô hình và điều chỉnh thang đo cho phù hợp với bối cảnh nghiên cứu người chăm sóc NCT tại Việt Nam.