món xôi không muối, cá không muối và trầu không vôi. Vào lễ hội Đả Ngư tháng Chín, các thôn đều dâng cá chín lên Thánh (trước đây là cá luộc thì nay thay bằng cá nướng để lâu hỏng hơn), riêng đền Ngự Dội luôn dâng cá sống do trong truyền thuyết Đức Thánh Tản đã thả một con cá chửa về phía sông Tích Giang bơi về phía đền Ngự Dội ngày nay.
Đặc biệt, kể từ khi lễ hội Đền Và được khôi phục lại sau chiến tranh và được tổ chức lớn thành chính hội thì không thể không kể đến nhân lực tổ chức từ cộng đồng địa phương. Điều này đã thể hiện giá trị xã hội to lớn là tính cố kết cộng đồng dân tộc. Bên cạnh những nghi lễ được duy trì từ quá khứ cho đến nay như lễ rước ba kiệu chính là kiệu Long Ngai Bài Vị, kiệu Văn và kiệu Lồng Mũ thì các thôn chuẩn bị thêm các kiệu quả riêng của thôn. Bên cạnh đó, các đình, đền, chùa cũng như các hộ gia đình, dòng họ, tổ dân phố… đều chuẩn bị lễ vật để nghênh Thánh đi qua. Việc tham gia này hoàn toàn là tự nguyện, được đề cử, tín nhiệm từ trong cộng đồng và không có nhiệm kỳ làm việc. Như cụ Sơn - chủ tế và cũng là chủ lễ Đền Và đã làm được 14 năm và nếu không bị bệnh thì sẽ vẫn tiếp tục được người dân và chính quyền tín nhiệm và tin tưởng giao cho trách nhiệm to lớn này. Hội nhỏ thì huy động hai ba trăm người còn hội lớn thì đến cả ngàn người, từ các cháu học sinh, sinh viên rước kiệu, các chị em phụ nữ chuẩn bị dọn d p cho đến các cụ bà trong đội rước nữ, các cụ ông trong đội tế nam. Đặc biệt phải kể đến vai trò của các cụ từ khoảng 55- 0 tuổi trở lên trong việc gìn giữ và phát huy giá trị lễ hội Đền Và. Các cụ đã tình nguyện và rất tâm huyết phục vụ và thực hành các nghi lễ tôn thờ Đức Thánh Tản, gìn giữ sự kiêng kị và đảm bảo sự linh thiêng, tâm linh của lễ hội. Việc thực hành và trao truyền con cháu những giá trị của lễ hội vẫn được thế hệ ông bà cha m có ý thức và tinh thần trách nhiệm, chính vì lẽ đó việc bắt gặp cả gia đình hay cả dòng họ cùng tham gia lễ hội Đền Và không phải là hình ảnh hiếm thấy. Đây chính là một sự tiếp nối di sản bền vững và phù hợp với tiêu chí bảo tồn di sản một cách bền vững trên nguyên tắc cộng đồng là chủ nhân của di sản và cần phát huy vai trò chủ động và tích cực của cộng đồng bản địa, đúng theo mục tiêu của Công ước 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO về sự tham gia chủ động và tích cực của cộng đồng, các nhóm người và cá nhân trong công tác bảo vệ di sản văn hóa.
Từ năm 200 Đền Và được trùng tu và tôn tạo và cho đến nay, công tác này đã hoàn thành, góp phần thay đổi diện mạo di tích. Các hoạt động tuyên truyền, quảng bá về di sản ngày càng được mở rộng, góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng, khơi dậy tinh thần trách nhiệm để cùng nhau chung tay bảo vệ và phát huy các giá trị di sản. Cũng từ đó, cộng đồng trở thành tác nhân đóng góp và làm nên những thay đổi cho di tích và sau đó là lễ hội. Bởi, theo tâm lý cộng đồng khi di tích và lễ hội quê mình được công nhận và vinh danh thì cộng đồng sẽ mong muốn có những đóng góp nhằm mở rộng, quảng bá hình ảnh di tích và lễ hội. Đặc biệt khi đời sống vật chất đã đầy đủ thì người
dân sẽ quan tâm nhiều đến đời sống tinh thần, trong đó có vấn đề tâm linh, tín ngưỡng. Người dân dĩ nhiên sẽ tham gia vào các sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng mà đặc biệt vào những ngày hội chính, đồng thời sẵn sàng đóng góp kinh phí, vật chất theo các chương trình xã hội hóa cũng như công đức về tiền bạc và hiện vật cho lễ hội. Thực tế cho thấy vào những năm chính hội, nguồn tiền và hiện vật công đức lên đến mấy tỷ và đủ để tổ chức lễ hội cho năm sau mà không cần đến nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước cũng như chương trình xã hội hóa của Nhà nước. Trong nội bộ dân làng, nhiều cá nhân, dòng họ cũng có tâm lý muốn để lại dấu ấn của mình ở di tích và lễ hội để tự hào với dòng họ khác, để khẳng định tên tuổi, vị thế của dòng họ mình. Chính vì vậy những mâm lễ vật đắt đỏ, những hiện vật công đức giá trị không phải là hình ảnh hiếm thấy trong lễ hội.
3.3.3. Biểu tượng hội tụ các giá trị xã hội và tái xác định những mối liên hệ đã gắn bó cộng đồng
Lễ hội là một “hiện tượng xã hội tổng thể” và là một “hình thái nguyên sinh” hay một “hình thái nguyên hợp” của văn hóa. Vì thế, nó là một hiện tượng văn hóa xã hội đa chức năng. Nhưng qua quá trình thích nghi, biến đổi và đặc biệt là trong bối cảnh xã hội hiện đại nhiều chức năng vốn có có nó đã bị thay đổi hoặc bị giải triệt. Ví dụ, đại đa số lễ hội đều được hình thành và tồn tại bởi nó thỏa mãn được nhu cầu tín ngưỡng của cộng đồng, và may mắn là không giống như một vài lễ hội đã bị biến dạng nhiều, lễ hội Đền Và vẫn còn gìn giữ được nhiều những giá trị vốn có. Chúng ta cần phải xác định được chức năng đặc thù của lễ hội ở tính bất biến của nó và thừa nhận rằng, chính chức năng đặc thù này khiến cho lễ hội cổ truyền có lý do tồn tại trong bất cứ hoàn cảnh xã hội nào, đồng thời khiến nó được phân biệt với những hiện tượng văn hóa khác trong một nền văn hóa. Chức năng luận án muốn nói đến ở đây là biểu hiện các giá trị xã hội của một cộng đồng và tái xác định những mối liên hệ đã gắn bó nhóm lại với nhau. Lễ hội có được chức năng đó bởi nó luôn bao hàm một hệ thống các biểu tượng mà qua hệ thống đó con người hồi tưởng và tri giác được cội nguồn của những mối liên hệ truyền thống đã sinh ra và đang bảo trì cộng đồng. Trước hết, những giá trị xã hội của một cộng đồng được biểu hiện ở chính đối tượng được cử lễ đã được biểu tượng hóa: biểu tượng Đức Thánh Tản… không chỉ thể hiện giá trị xã hội của một cộng đồng làng nào đó, mà còn thể hiện giá trị của cả một cộng đồng dân tộc, thậm chí của quốc gia.
Trong lễ hội, những nghi thức mang tính biểu tượng quy định hành vi của con người mà ở đây, hành vi có thể hiểu là một dạng biểu tượng. Những hành vi đó được truyền từ đời này sang đời khác, chính vì vậy, thế giới biểu tượng trong lễ hội cổ truyền tạo nên sức mạnh và tính cố kết cộng đồng dân tộc. Hệ thống biểu tượng với toàn bộ ý nghĩa tốt đ p của nó có chức năng điều tiết xã hội, chống lại những tác động tiêu cực
sinh ra do sự biến đổi tất yếu của đời sống con người. Sự hiện diện của các hệ thống biểu tượng trong lễ hội chính là sự bày tỏ “cái tâm thức” của cả cộng đồng, nói lên được những giá trị định hướng mà cả cộng đồng lựa chọn nó là niềm tin, cái thiêng liêng, sự mong ước và khát vọng của mỗi cá nhân, của nhóm và của cả cộng đồng. Nó thể hiện phần nào cốt cách và bản lĩnh của mỗi dân tộc, vì mỗi biểu tượng có trong lễ hội đều là những thần tích kỳ vĩ hay những chiến công hiển hách của anh hùng dân tộc khai sáng văn hóa Đức Thánh Tản.
Biểu tượng về cộng đồng bao giờ cũng chứa trong nó tính thiêng, chính yếu tố này tạo nên đức tin và ước mơ cho con người, góp phần nối liền các tâm hồn lại với nhau. Biểu tượng trong lễ hội trở thành ngôn ngữ đặc thù của đời sống xã hội, nó quy định mọi thế ứng xử của con người và giúp cho một số đông người có thể giao tiếp được với nhau trong một cộng đồng riêng biệt. Đối với các thành viên của cộng đồng, mỗi lần lễ hội là một lần họ được thực thi tinh thần dân chủ làng xã cổ truyền. Chính sự bình đẳng hiếm hoi ấy trong xã hội có giai cấp đã góp phần tạo nên sự cộng cảm giữa tất thảy các thành viên trong cộng đồng, đúng như nhà nghiên cứu Trần Từ đã nhận xét “Hội h đình đám là hoạt động cộng cảm, và chính vì thế nó đòi hỏi sự tham gia chung của mọi người có liên quan. Ở đây hầu như toàn bộ cư dân làng xã, tức là tất cả những ai sống dưới sự bảo vệ siêu nhiên của vị thần được thờ trong đình thì giữa người với người chỉ có thể cộng cảm trong bình đẳng… Nhờ vậy, trong một vài ngày lễ lạt, ai nấy tạm quên đi (và quên được) những mâu thuẫn thường xuyên trong cuộc sống thế tục hàng ngày để cùng nhau sống cái không khí phấn khích của lễ hội làng mình” [38; tr. 109].
Tiểu kết
Xét trên phương diện kinh tế, lễ hội và tín ngưỡng được tạo lập phản chiếu trung thực loại hình kinh tế của cộng đồng, có nghĩa là trong lễ hội, VXH có thể được hiểu ở loại hình kinh tế của cộng đồng. Từ lễ hội và tín ngưỡng, cộng đồng sẽ nhận được những lợi ích kinh tế. Nhưng lợi ích này có thể giống/không giống hoặc hơi giống với loại hình kinh tế ban đầu trong quá trình tạo lập. Địa danh hóa Đức Thánh Tản là tiền đề cho quá trình địa danh hóa sản vật địa phương. Cộng đồng sẽ nhận được hai lợi ích, lợi ích đầu tiên là trên phương diện tinh thần khi duy trì ký ức, niềm tin sâu sắc với thánh thần và lợi ích thứ hai là trên phương diện vật chất: đem lại lợi ích kinh tế cho cộng đồng. Lợi ích đầu tiên được hình thành trước rồi mới đến lợi ích thứ hai.
Trên phương diện văn hoá, lễ hội luôn gắn với một vị Thánh, một thời gian và một không gian cụ thể. VXH trong lễ hội được tạo lập từ ý thức chung về sự linh thiêng của vị thánh được tôn thờ, ý thức này luôn được bồi đắp bởi những khuôn mẫu văn hóa vật thể và phi vật thể như kiến trúc và trang trí nơi thờ tự, các truyền thuyết linh thiêng
về vị thánh cũng như các nghi trình, trò chơi, bữa ăn hay trang phục trong lễ hội. Cái cộng đồng nhận được từ lễ hội chính là niềm tự hào truyền thống, ý thức về cái nhất của làng hay “người làng ta”. Cộng đồng đã tạo lập những yếu tố đó thông qua niềm tin tín ngưỡng ý thức xã hội của mình và từ đó, không gian vật chất làng mới trở thành không gian xã hội, không gian tâm lý và không gian văn hóa. Từ đó, cộng đồng sẽ nhận được lợi ích là ý thức đoàn kết cộng đồng, tạo sự gắn kết của các thành viên trong gia đình, dòng tộc, thôn xóm cao hơn và góp phần bảo lưu tín ngưỡng tốt hơn. Ở đây, lợi ích cộng đồng nhận được hoàn toàn trên phương diện tinh thần. Hơn nữa, trên phương diện ý thức tập thể và cá nhân, có thể thấy thành phần tham gia của lễ hội được coi là nhân tố trọng tâm tạo nên kết cấu lễ hội. Ý thức về người làng gốc làng gốc có lễ hội bao giờ cũng đóng vai trò chủ thể, giữ luôn vai trò chính, trung tâm của lễ hội. Trên phương diện tạo lập VXH, cách chọn chủ tế, cách chọn đội tế, đội rước chính hay cách tán lộc đều phản ánh nguyên tắc chủ thể lễ hội của cộng đồng. Trên phương diện lợi ích, những chủ thể này nhận được sự tôn trọng, uy tín từ cộng đồng và tất nhiên cả nguồn lợi vật chất. Chủ tế, thủ nhang đền… có thể dùng những lợi ích này để kinh doanh, để đem lại những tiếng tăm và sự kính nể không chỉ cho mình mà còn cho con cháu mình sau này. Từ đó, VXH này đã đáp ứng sự vận động duy trì thăng bằng tâm lý mà dường như khó có hình thức nào khác của văn hóa có thể làm được như vậy. Nhờ đó, lễ hội giải phóng những xúc cảm bị dồn nén, là điều kiện cho sự tái sáng tạo của mỗi người trong lĩnh vực hoạt động của mình.
Cuối cùng, trên phương diện xây dựng biểu tượng, cộng đồng đã tạo ra lịch sử và văn hóa thông qua biểu tượng Đức Thánh Tản cũng như các hành vi, các lễ vật dâng cúng Ngài. Ngài ngự tại đền, chứng kiến đời sống của dân chúng, cùng dân chúng ghi nhớ mọi kỉ niệm của làng xã. Nhờ VXH này, mọi luật lệ, thói tục, đạo đức của cộng đồng đều được Ngài duy trì vì muốn được Ngài ban phước và sợ bị Ngài trừng phạt. Biểu tượng về cộng đồng bao giờ cũng chứa trong nó tính thiêng, chính yếu tố này tạo nên đức tin và ước mơ cho con người, góp phần nối liền các tâm hồn lại với nhau. Trên phương diện này, đó chính là quá trình biểu hiện các giá trị xã hội và tái xác định những mối liên hệ đã gắn bó cộng đồng với nhau.
Chương 4
MỘT SỐ VẤN ĐỀ BÀN LUẬN VỀ VỐN XÃ HỘI TRONG LỄ HỘI ĐỀN VÀ
4.1. Tam giác quan hệ Nhà nước, cộng đồng và vốn xã hội
4.1.1. Nhà nước, cộng đồng và định chế xã hội
Bàn về mối quan hệ giữa Nhà nước và cộng đồng trong lễ hội, chúng ta cần phải bàn đến định chế xã hội. Như đã giới thuyết tại chương 1, định chế xã hội ở đây có thể hiểu là một thành tố nội hàm để tạo ra VXH, được hình thành với một hệ tư tưởng quán xuyến và bao gồm hai nhân tố quan trọng là nhà nước với hệ tư tưởng chính trị quán xuyến cùng luật pháp ràng buộc con người và cộng đồng với những lề thói, phong tục tập quán không bắt buộc nhưng trở nên sâu đậm trong sinh hoạt văn hóa xã hội. Khi áp dụng lý thuyết định chế xã hội vào nghiên cứu thực hành tín ngưỡng, mà cụ thể ở đây là tín ngưỡng Đức Thánh Tản tại Đền Và, Sơn Tây, Hà Nội, chúng ta có thể sơ đồ hóa phương thức hình thành, biểu hiện cũng như lợi ích của định chế xã hội như sau:
Sơ đồ 4.1: Mô hình tác động của định chế xã hội đến tín ngưỡng và lễ hội Đền Và
Mối quan hệ của Nhà nước/ cộng đồng
Xây dựng
Tổ chức
Quản lý
Điều hành
ĐỊNH CHẾ XÃ HỘI
Định chế xã hội chính trị
Định chế xã hội dân sự
Tạo ra VXH
Lợi ích chính trị
Lợi ích kinh tế
Lợi ích văn hoá
Với trường hợp tín ngưỡng và lễ hội tại Đền Và, chúng ta thấy rằng, trên phương diện tín ngưỡng và lễ hội, định chế xã hội chính trị ở đây được thể hiện qua hai giai đoạn. Trong quá khứ, định chế này đã tạo dựng nên lớp tư tưởng Nho giáo phủ lên hình tượng Đức Thánh Tản bằng thần tích, sắc phong cùng với chức năng một vị Nhiên thần, Nhân thần, Bách nghệ Tổ sư và cuối cùng là Thành hoàng làng. Vào hiện tại, định chế xã hội chính trị
này được thể hiện thông qua sự tham gia của chính quyền vào khâu tổ chức, như phân công các tiểu ban phụ trách lễ hội và chỉ đạo toàn bộ diễn trình lễ hội vào bốn năm lớn Tý, Ngọ, Mão, Dậu ở cấp thị xã và ở cấp phường vào những năm còn lại. Sự mở rộng và củng cố sinh hoạt tín ngưỡng này vẫn còn hiện diện mạnh mẽ trong đời sống hiện tại, cho thấy sức sống mạnh mẽ của định chế xã hội chính trị đối với tín ngưỡng và lễ hội ở Đền Và.
Cũng trên phương diện tín ngưỡng và lễ hội, định chế xã hội dân sự đã có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành tín ngưỡng thờ Đức Thánh Tản. Theo nhiều nhà nghiên cứu, cơ sở của sự hình thành tín ngưỡng chính là phương thức kinh tế cùng với niềm tin của cộng đồng. Như đã phân tích tại chương 1 của luận án, Đức Thánh Tản là vị Thánh, Thần được thờ phụng khá phổ biến trong tín ngưỡng dân gian người Việt và người Mường. Có lúc Ngài hiện diện như một vị thần Núi trong tín ngưỡng phong thuỷ cổ sơ của cư dân bản địa, có lúc Ngài là vị Thành hoàng làng hiện diện trong các ngôi đình làng của người Việt hay Mường. Ngài cũng là vị Thánh trong hệ thống Đạo giáo bản địa và thậm chí còn vươn tới hệ thống Tứ Bất Tử trong hệ thống điện thần Việt tộc. Ở phạm vi rộng cả nước hay hạn h p trong vùng truyền thuyết và thờ phụng Tản Viên, chúng ta đều thấy được nét chung là tập trung ở địa bàn sinh tụ của người Việt và người Mường. Nếu kể riêng vùng Sơn Tây và Vĩnh Phú thì đó chính là địa bàn gốc, quê hương cổ xưa của tộc Việt - Mường. Nơi đó cũng diễn ra quá trình chia tách giữa Việt và Mường mà nay nhiều người dự đoán vào khoảng thế kỷ thứ VIII, IX, nơi có bộ phận người Mường hoá Việt và cũng có thể cả Việt hóa Mường. Chính vì vậy, Đức Thánh Tản là quan niệm phổ biến ở hầu khắp cư dân Việt và Mường xưa kia cũng như hiện nay. Phụng thờ Ngài - Sơn Thần cũng như Thuỷ thần chính là trục tín ngưỡng phong thuỷ của cư dân bản địa. Đối với việc thực hành tín ngưỡng thờ Đức Thánh Tản mà cụ thể là tổ chức lễ hội, định chế này chính là sự tập hợp dân cư theo lãnh thổ cư trú, mà phạm vi này có liên quan mật thiết đến những câu chuyện về quá trình vi hành, dạy dân làm nghề của Đức Thánh Tản. Từ phạm vi cư trú trong quá khứ mà việc vận hành lễ hội, sự phân công nhiệm vụ từ chủ tế, bồi tế, trông coi đền hay viết sớ đều cho thấy sự hiện diện của truyền thuyết về Đức Thánh Tản trong đời sống hiện tại.
Theo lý thuyết “xã hội tổng thể” của Marcel Mauss thì mọi hiện tượng xã hội đều nảy sinh trong một môi trường kinh tế - xã hội nhất định, phản ánh một thực tại xã hội nhất định” [103, tr.101]. Tại chương 1, luận án cũng đưa ra nhận định về môi trường tạo lập và sử dụng VXH của tác giả Trần Hữu Quang “xã hội nào có VXH ấy” [ , tr.59]. Do vậy, khi nghiên cứu một hiện tượng xã hội dưới con mắt của “sự kiện xã hội tổng thể”, chúng ta không chỉ làm rò bản chất của nó mà cần phải lý giải được môi trường xã hội nào đã sản sinh và tồn tại hiện tượng mà chúng ta nghiên cứu. Với hiện tượng Đức Thánh Tản, nhất là sự hình thành và mở rộng các lớp văn hoá của hình tượng đã có thấy sự biến đổi của xã hội Việt Nam, từ một
thời kỳ kinh tế nông nghiệp phát triển (Tản Viên - Sơn thần) cho đến giai đoạn Nho giáo thịnh hành (Thành hoàng làng Đức Thánh Tản). Sự hội nhập và lan tỏa các lớp văn hoá này đã cho thấy vai trò và ảnh hưởng rò nét của hai định chế xã hội là định chế xã hội chính trị và định chế xã hội dân sự. Hiện tượng biến đổi này chính là tấm gương phản chiếu sự chuyển mình của phương thức kinh tế cũng như hệ tư tưởng thời đại của cả xã hội Việt Nam.
4.1.2. Nhà nước, cộng đồng và phân công xã hội
Như chúng ta đã biết, lễ hội không phải là một sản phẩm của quá khứ với những giá trị và hình thái bất di bất dịch, có giá trị vĩnh viễn, mà thay vào đó, trong bối cảnh đương đại, lễ hội luôn được nhìn nhận như một quá trình sáng tạo văn hóa trong môi trường vận động thực tại, được tạo ra từ động lực của các nhóm xã hội khác nhau trong xã hội. Vì lẽ đó, lễ hội không đơn thuần chỉ dừng lại ở lĩnh vực kinh tế mà còn mang ý nghĩa về chính trị, kinh tế và xã hội. Trong xu thế toàn cầu hóa và bối cảnh đương đại như hiện nay, tổ chức lễ hội được các quốc gia quan tâm để thông qua đó nhà nước có thể gắn kết hơn với cộng đồng chủ thể trong quản lý xã hội, củng cố vị thế chính trị trong nước và thế giới, khẳng định bề dày lịch sử phát triển cũng như giữ gìn bản sắc văn hóa quốc gia. Qua thực tiễn lễ hội Đền Và có thể thấy việc tổ chức lễ hội là một công việc tất yếu với sự tham gia của nhiều bên liên quan khác nhau, thể hiện qua sự phân công xã hội, với các chiến lược khác nhau, tạo nên bức tranh sinh hoạt văn hóa đa dạng và độc đáo ở Việt Nam sau Đổi mới. Về phía nhà nước, đó là các động thái tuyên truyền quảng bá, biểu tượng hóa lễ hội và di tích Đền Và, sự can thiệp vào các khâu tổ chức, tạo ra diễn ngôn mới. Nhà nước sử dụng lễ hội để củng cố, khẳng định quyền lực chính trị của mình. Theo NCS, đó là một cách để quản lý xã hội của nhà nước từ quá khứ cho đến hiện nay. Về phía cộng đồng, đó là các động thái tiếp cận, hỗ trợ, kế thừa, sáng tạo hoặc mở rộng hoặc chủ động lưu giữ, bảo tồn… Cộng đồng cũng cần tham gia lễ hội để phục vụ các mục đích của cộng đồng mà các mục đích này không giống với mục đích của nhà nước. Đây là một cách thể hiện tiếng nói cá nhân, vai trò của mình trước người khác trong cộng đồng, khẳng định tư cách là thành viên trong cộng đồng. Họ đã tham gia với tinh thần tự nguyện, nhiệt tình và hết sức linh hoạt, khéo léo để vừa đạt được mục đích của mình vừa đóng góp công sức cho cộng đồng của mình và lễ hội quê mình. Nói một cách khác, lễ hội đã tạo nên một sân chơi, một diễn đàn, một công cụ để nhiều bên có thể tham gia, tận dụng bằng nhiều cách khác nhau. Vì vậy, thực hành sinh hoạt văn hóa lễ hội chính là một quá trình dựa trên ý nguyện, mong muốn của các bên liên quan khác nhau. Một sự quản lý chung của nhà nước nhưng mỗi một cộng đồng lại tham gia lễ hội với những cách thức khác nhau, đóng góp tích cực vào bản sắc quốc gia - dân tộc, bản sắc cộng đồng hoặc bản sắc nhóm, tạo ra sự khác biệt trên nền chung của môi trường văn hóa xã hội. Thực tế cho thấy, mỗi một nhóm cộng đồng
tham gia vào lễ hội theo một cách khác nhau, phản ánh thế giới văn hóa đa chiều, phức tạp với sự vận hành của các quan hệ quyền lực giữa nhà nước, cộng đồng trong bối cảnh xã hội đương đại. NCS sẽ minh chứng bằng vai trò của cộng đồng địa phương và chính quyền thị xã Sơn Tây trong những ngày diễn ra lễ hội Đền Và năm 2017 như sau:
Bảng 4.1. Phân công nhiệm vụ tổ chức lễ hội Đền Và tháng Giêng năm 2017
Cộng đồng địa phương | Chính quyền thị xã Sơn Tây và Phường Trung Hưng | ||
Trước chính hội 1 tháng | Họp bàn và phân chia nhiệm vụ về cộng đồng làng - 4 làng chính: Vân Gia, Phú Nhi, Phù Sa và Duy Bình - 4 làng phụ: Mai Trai, Nghĩa Phủ, Ái Mỗ, Thanh Trì | Họp bàn và phân chia nhiệm vụ về các đơn vị có liên quan | |
Ngày 14 tháng Giêng âm lịch | Buổi sáng | Lễ của dân làng | - Đảm nhận công tác tổ chức, khách mời, an ninh, vệ sinh an toàn thực phẩm và truyền thông. - Tổ chức các trò chơi: cờ tướng, chọi gà, kéo co, nấu cơm thi, đấu vật… |
Buổi chiều | Lễ của dân làng | ||
Ngày 15 tháng Giêng âm lịch | Buổi sáng | 3 giờ sáng làm lễ phụng nghinh (đón Thánh ra ngoài) | |
4 giờ sáng làm lễ rước Kiệu | |||
Buổi trưa | 10 giờ làm lễ Độ Hà | ||
12 giờ làm lễ Nghênh Thánh bên đền Ngự Dội | |||
Buổi chiều | 1 giờ làm lễ tế | ||
Buổi chiều - Buổi tối | Rước Thánh quay lại Đền Và | ||
Ngày 16 và 17 tháng Giêng | Buổi sáng và buổi chiều | Lễ tế của dân làng |
Có thể bạn quan tâm!
- Từ Không Gian Vật Chất Đến Không Gian Thiêng [16, Tr.66]
- Gìn Giữ Niềm Tin Tín Ngưỡng Và “Sáng Tạo Truyền Thống”
- Sự Thăng Hoa Trạng Thái Tâm Lý Cá Nhân Và Cộng Đồng
- Nhà Nước, Cộng Đồng Và “Sáng Tạo Truyền Thống”
- Sáng Tạo Truyền Thống Cho Thấy Thế Ứng Xử Của Nhà Nước Và Cộng Đồng Khi Linh Hoạt “Sử Dụng”, “Vận Dụng” Cơ Chế Truyền Thống Sang Cơ Chế
- Hỗn Dung Niềm Tin Tôn Giáo Tín Ngưỡng Trong Vốn Xã Hội
Xem toàn bộ 215 trang tài liệu này.
[Nguồn: tư liệu điền dã tác giả 02/2017]
Quy mô và tầm ảnh hưởng của vị thánh thần cũng như lễ hội của quê mình đã có tác động đối với cộng đồng, Nhà nước và bản thân lễ hội. Sự vinh danh, tầm ảnh hưởng lớn của lễ hội tác động đến tâm lý, ý thức của cộng đồng, họ tự hào, phấn khởi bởi di sản của họ được công chúng trong và ngoài nước biết đến nhiều hơn. Chính cộng đồng cũng nhận thức được rò về tầm ảnh hưởng của lễ hội đối với đời sống văn hóa, tinh thần của họ, từ đó họ quan tâm đến lễ hội nhiều hơn, thể hiện bằng lòng nhiệt tình tham gia, sự tâm huyết của người dân trong việc tổ chức lễ hội, trong các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị lễ hội. Cùng với đó, sự thu hút và nổi tiếng của lễ hội cũng kéo theo sự quan tâm ngày càng lớn của nhà nước và chính quyền địa phương, nhiều dự án đầu tư, tôn tạo di tích, phát huy giá trị lễ hội được thực hiện.