Tổng Quan Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Tới Tự Chủ Chăm Sóc


điểm người được chăm sóc. Nhóm tác nhân gây căng thẳng thứ cấp bao gồm các yếu tố như xung đột vai trò (role conflict), sự đảm bảo về thu nhập. Các nhóm yếu tố gây căng thẳng này sẽ tác động tới các kết quả chăm sóc như khả năng kiểm soát đối với công việc chăm sóc (sense of control), mức độ hài lòng tinh thần (mental well-being), sức khỏe, khả năng từ bỏ công việc chăm sóc của người chăm sóc.

Tuy nhiên lý thuyết này chỉ ra rằng, cho dù cùng đối mặt với hai nhóm căng thẳng này, thì kết quả chăm sóc vẫn có sự khác biệt đối với các nhóm người chăm sóc khác nhau. Chẳng hạn, với cũng hai người chăm sóc đều phải đảm nhận cùng lúc hai vai trò (vai trò chăm sóc và làm việc), nhưng kết quả chăm sóc lại có sự khác biệt. Do vậy, lý thuyết chỉ ra rằng tồn tại các yếu tố khác tác động tới quá trình căng thẳng của một người, từ đó ảnh hưởng tới kết quả chăm sóc. Các yếu tố đó bao gồm yếu tố nền tảng liên quan tới ngữ cảnh chăm sóc (văn hóa, địa vị xã hội, mạng lưới mối quan hệ gia đình, lịch sử các yếu tố liên quan tới người chăm sóc) và các yếu tố trung gian thuộc về nguồn lực cá nhân và nguồn lực xã hội (HTXH, chiến lược đối mặt…).


Hình 2 2 Mô hình lý thuyết quá trình căng thẳng Nguồn Pearlin 1990 Các nghiên 1

Hình 2.2. Mô hình lý thuyết quá trình căng thẳng

Nguồn: Pearlin (1990)

Các nghiên cứu theo mô hình lý thuyết này mới chủ yếu chỉ hướng tới giảm thiểu các tác động tiêu cực của quá trình chăm sóc như sự lo lắng, kiệt sức, cô đơn, gánh nặng, sức khoẻ thể chất, trong khi đó không đề cập nhiều đến khía cạnh tích cực của quá trình chăm sóc (Carretero và cộng sự, 2009; Conde-Sala và cộng sự, 2010; Han và cộng sự,


2012). Đồng thời, phần lớn các tác giả theo dòng lý thuyết này đều chủ yếu tập trung vào các đặc điểm nhân khẩu học của người chăm sóc và tình trạng sức khỏe của người được chăm sóc trong khi đó vai trò của các yếu tố trung gian chưa được nhiều nghiên cứu kiểm định, đặc biệt vai trò trung gian của yếu tố xung đột công việc – gia đình. Do vậy, nghiên cứu này sẽ tập trung vào kiểm định vai trò của yếu tố xung đột công việc – gia đình trong mối liên hệ giữa yếu tố ngữ cảnh, cụ thể là nền tảng văn hóa giá trị gia đình và mức độ tự chủ chăm sóc. Đồng thời trong mô hình lý thuyết này, sự hỗ trợ xã hội cũng được xem là một yếu tố nguồn lực quan trọng tác động tới kết quả chăm sóc, tuy nhiên các nghiên cứu mới dừng lại dưới góc độ tác động của hỗ trợ xã hội tới giảm thiểu gánh nặng, mức độ kiệt sức của người chăm sóc, mà chưa làm rõ tác động của yếu tố này tới trải nghiệm tích cực, cụ thể là mức độ tự chủ đạt được của người chăm sóc theo ba khía cạnh hiểu biết, thái độ, hành vi, và đây cũng là mối quan hệ mà luận án muốn khai thác làm rõ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 149 trang tài liệu này.

2.3. Tổng quan các yếu tố ảnh hưởng tới tự chủ chăm sóc

2.3.1. Các nghiên cứu có liên quan tới tự chủ chăm sóc sử dụng lý thuyết căng thẳng nhận thức của Lazarus và Forman (1984)

Các tác giả theo đuổi dòng lý thuyết căng thẳng nhận thức của Lazarus và Forman (1984) chưa đề cập đến tác động trực tiếp của các yếu tố tới tự chủ chăm sóc mà chủ yếu tập trung vào các kết quả chăm sóc khác như khả năng tự quản lý chăm sóc bản thân (self-care management) (Wang, 2013) ; gánh nặng chăm sóc (Shieh, 2012; Sherbourne & Stewart, 1991) hay tập trung nhiều hơn vào yếu tố trung gian đánh giá về công việc chăm sóc (Epps, 2012; Lai, 2010).

Cụ thể, trong lý thuyết của Lazarus và Forman (1984) đề cập tới biến đánh giá của người chăm sóc về công việc chăm sóc. Đây là một biến được đề cập khá nhiều trước đây, khi các tác giả xem xét tác động của các yếu tố ảnh hưởng tích cực tới kết quả chăm sóc. Yamamoto-Mitani và cộng sự (2004) đã chứng minh rằng đánh giá tích cực và tiêu cực về công việc chăm sóc được kiểm định là có mối quan hệ với chất lượng cuộc sống của người chăm sóc. Quan điểm đánh giá tích cực trong nghiên cứu này dựa trên tổng quan về lý thuyết và phỏng vấn sâu đối với người chăm sóc tại Nhật Bản, liệu rằng họ có xem công việc chăm sóc hiện tại là tốt và thoải mái. Giả thuyết nghiên cứu đưa ra đánh giá tích cực về công việc chăm sóc có mối quan hệ thuận chiều với chất lượng cuộc sống cả về thể chất và tinh thần của người chăm sóc.


Ở một khía cạnh khác, Wang (2013) kiểm định kết quả chăm sóc tích cực liên quan tới khả năng tự quản lý chăm sóc bản thân (self-care management) của người chăm sóc dựa trên mẫu người chăm sóc cho đối tượng người cao tuổi mất trí nhớ tại Mỹ. Cụ thể, tác giả đề cập tới hai nhóm biến trong mô hình của Lazarus và Forman (1984) bao gồm biến môi trường (nhu cầu chăm sóc, đặc điểm người chăm sóc), biến trung gian (chiến lược đối mặt) và đánh giá tác động của nó tới kết quả chăm sóc là khả năng tự quản lý chăm sóc bản thân của người chăm sóc. Khả năng tự quản lý chăm sóc bản thân được định nghĩa như những hoạt động hay khả năng của người chăm sóc để duy trì và tăng cường sức khoẻ, phòng tránh bệnh tật để đối mặt với công việc chăm sóc bất kể với sự giúp đỡ hay không của những người chăm sóc sức khoẻ chuyên nghiệp (WHO, 2009). Kết quả kiểm định cho thấy đặc điểm nhân khẩu học của người chăm sóc, nhu cầu chăm sóc, phương thức đối mặt chủ động (active coping) có ảnh hưởng tới khả năng tự quản lý chăm sóc bản thân của người chăm sóc. Trong đó, các đặc điểm nhân khẩu học có thể giải thích cho sự khác biệt về khả năng quản lý chăm sóc bản thân bao gồm trình độ giáo dục, giới tính và thu nhập; nhu cầu chăm sóc thể hiện qua mức độ phụ thuộc đối với các hoạt động chức năng cơ bản (ADL) và mức độ phụ thuộc đối với các hoạt động chức năng sinh hoạt (IADL).

Tương tự, khi nghiên cứu về khía cạnh tiêu cực của kết quả chăm sóc là gánh nặng chăm sóc, Sherbourne & Stewart (1991) hay Shieh (2012) cũng sử dụng lý thuyết căng thẳng nhận thức của Lazarus và Forman (1984). Tuy nhiên, các nhóm tác giả này tập trung vào khai thác yếu tố trung gian, cụ thể là hỗ trợ xã hội với việc phân loại hỗ trợ xã hội theo hai khía cạnh nhận thức về hỗ trợ xã hội (perceived social suppoort) và hỗ trợ xã hội nhận được (received social support). Kết quả nghiên cứu cho thấy hỗ trợ xã hội nhận được (received social support) có mối quan hệ với gánh nặng chăm sóc. Ngoài ra nhóm tác giả này cũng chỉ ra các nhân tố có thể dự đoán gánh nặng khác như: các đặc điểm nhân khẩu học, thời gian chăm sóc, tình trạng sống chung,… nhưng yếu tố sự hỗ trợ xã hội nhận được đóng góp ý nghĩa nhiều nhất trong gánh nặng chăm sóc, nó giúp làm giảm thiểu mức độ gánh nặng đối với người chăm sóc. Nhóm tác giả phát hiện với những người chăm sóc có mức độ tương tác xã hội cao và có được sự hỗ trợ xã hội thì sẽ làm giảm thiểu gánh nặng chăm sóc. Trong khi đó, Shieh (2012) trong nghiên cứu của mình lại cho thấy mối quan hệ giữa nhận thức về HTXH (perceived social support) và gánh nặng chăm sóc. Những người chăm sóc nhận thấy mức độ hỗ trợ xã hội cao được báo cáo mức độ gánh nặng thấp hơn.


Ở một hướng khác, khởi nguồn tập trung vào nhóm biến cá nhân trong mô hình lý thuyết quá trình căng thẳng của Lazarus và Forman (1984), nghiên cứu của Epps (2012) và Lai (2010) chứng minh tác động của giá trị niềm tin văn hóa tới yếu tố trung gian (đánh giá về công việc chăm sóc) và kết quả chăm sóc. Cụ thể, nghiên cứu của Epps (2012) chỉ ra tác động của giá trị văn hoá, tôn giáo đến đánh giá tích cực về công việc chăm sóc của người Mỹ gốc Phi. Trong khi đó, Lai (2010) kiểm định về tác động của giá trị đạo đức tới đánh giá về gánh nặng chăm sóc đối với người chăm sóc gia đình Canada -Trung Quốc. Tác giả đã chỉ ra mối liên hệ giữa dự đoán kết quả tích cực và tiêu cực đối với người chăm sóc, và tác động của giá trị văn hoá tới đánh giá về công việc chăm sóc. Kết quả khẳng định giá trị đạo đức là một động lực quan trọng giúp các thành viên chăm sóc có thêm sức mạnh và khả năng chịu đựng để đối mặt với những thử thách của công việc chăm sóc, góp phần làm giảm gánh nặng chăm sóc cho họ.

Dựa trên tổng quan theo dòng lý thuyết căng thẳng nhận thức của Lazarus và Forman (1984) có thể thấy rất ít nghiên cứu đề cập tới kết quả chăm sóc liên quan tới mức độ tự chủ của người chăm sóc, tuy nhiên đã có một số các nghiên cứu đề cập đến các kết quả tích cực đối với người chăm sóc như chát lượng cuộc sống hay khả năng tự quản lý chăm sóc bản thân (self-care management). Và các nghiên cứu hướng tới các kết quả chăm sóc tích cực này cho thấy các yếu tố có thể dự đoán cho kết quả chăm sóc tích cực tập trung chủ yếu vào đánh giá về công việc chăm sóc và chiến lược đối mặt của người chăm sóc. Đối với biến hỗ trợ xã hội, các kết quả theo dòng lý thuyết này cho thấy có tác động giảm gánh nặng đối với người chăm sóc nhưng chưa cho thấy tác động của hỗ trợ xã hội tới việc thúc đẩy các kết quả chăm sóc tích cực. Đối với những nghiên cứu đề cập tới giá trị văn hóa thì chủ yếu kiểm định tác động của nó tới biến trung gian đánh giá về công việc chăm sóc, từ đó mới tác động tới kết quả chăm sóc. Nhìn vào mô hình lý thuyết của Lazarus và Forman (1984) cũng cho thấy vai trò chủ yếu của biến trung gian đánh giá về công việc chăm sóc, do vậy tác giả không sử dụng lý thuyết này để nghiên cứu mức độ tự chủ của người chăm sóc.

2.3.2. Các nghiên cứu có liên quan tới tự chủ chăm sóc sử dụng lý thuyết chuyển đổi căng thẳng của Aranda & Knight (1997)

Lý thuyết chuyển đổi căng thẳng và hỗ trợ xã hội của Aranda và Knight (1997) được phát triển từ lý thuyết căng thẳng nhận thức của Lazarus và Forman (1984), tuy nhiên tập trung nhiều hơn vào các yếu tố liên quan tới giá trị niềm tin văn hóa.


Dựa trên lý thuyết này, Pharr và cộng sự (2014), Rozario và DeRienzis (2008), Knight và cộng sự (2002), Knight và Sayegh (2009) đã chứng minh tác động của giá trị niềm tin văn hóa tới các kết quả chăm sóc như gánh nặng chăm sóc, mức độ hạnh phúc tâm lý (psychological well-being) của người chăm sóc. Chẳng hạn như Pharr và cộng sự (2014) thực hiện nghiên cứu phỏng vấn sâu về ảnh hưởng của các giá trị và niềm tin văn hoá tới trải nghiệm chăm sóc gia đình, dựa trên 35 người chăm sóc thuộc các nhóm tôn giáo khác nhau. Kết quả cho thấy giá trị văn hóa, bao gồm các khía cạnh cả về niềm tin về chuẩn mực trách nhiệm gia đình, niềm tin về sự gần gũi kết nối gia đình quyết định mức độ mà người chăm sóc cảm thấy công việc chăm sóc như một trải nghiệm tất yếu và thông thường của cuộc sống, điều này sẽ làm giảm bớt áp lực gánh nặng cho bản thân người chăm sóc.

Trong khi Pharr và cộng sự (2014) khám phá mối quan hệ này dựa trên kết quả định tính thì nghiên cứu của Rozario và DeRienzis (2008) được chứng minh qua kết quả định lượng và đánh giá tác động của giá trị gia đình tới kết quả tiêu cực đối với người chăm sóc. Cụ thể, nhóm tác giả kiểm định tác động của giá trị gia đình như một yếu tố truyền thống và động lực quyết định mức độ hạnh phúc tâm lý (psychological well- being) đối với người chăm sóc. Mẫu nghiên cứu dựa trên 107 người chăm sóc chính là người Mỹ gốc Phi. Số liệu chứng minh cho thấy giá trị gia đình không được xem như một yếu tố bảo vệ, nhằm giảm thiểu mức độ căng thẳng đối với người chăm sóc thay vào đó nó lại tác động ngược lại tới căng thẳng tâm lý đối với người chăm sóc. Bên cạnh đó, Knight và cộng sự (2002) cũng chứng minh được rằng giá trị gia đình ảnh hưởng nghịch chiều tới sức khỏe tinh thần và thể chất của người chăm sóc. Phát triển tiếp mô hình nghiên cứu của Knight và cộng sự (2002), Knight & Sayegh (2009) đã chứng minh rằng, trong hai khía cạnh của giá trị gia đình (bao gồm niềm tin về trách nhiệm gia đình và niềm tin về sự hỗ trợ từ gia đình) thì niềm tin trách nhiệm gia đình có mối liên hệ với kết quả chăm sóc. Cụ thể, niềm tin về trách nhiệm đối với gia đình và các thành viên gia đình thúc đẩy những suy nghĩ tiêu cực, tăng áp lực đối với người chăm sóc, từ đó dẫn tới các dấu hiệu chán nản, buồn bã, kiệt sức ở người chăm sóc. Trong khi đó niềm tin về sự hỗ trợ từ gia đình hay gắn kết gia đình không có tác động tới kết quả chăm sóc.

Xem xét một góc nhìn khác của lý thuyết chuyển đổi căng thẳng, Sayegh & Knight (2011) tập trung chứng minh vai trò trung gian của chiến lược đối mặt (coping strategies) trong mối quan hệ giữa giá trị gia đình và kết quả chăm sóc. Số liệu phân tích định lượng cho thấy khía cạnh niềm tin về trách nhiệm gia đình (familial obligations) có mối liên hệ với việc sử dụng phương thức đối phó (avoidant coping), dẫn tới tác động


nghịch chiều tới kết quả thể chất và tinh thần của người chăm sóc. Trong khi đó, khía cạnh niềm tin, sự kỳ vọng về hỗ trợ từ gia đình (Expected support from family) không cho thấy ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp tới kết quả đối với người chăm sóc.

Có thể thấy do lý thuyết chuyển đổi căng thẳng được phát triển từ lý thuyết của Lazarus và Forman (1984), vì vậy hầu hết các nghiên cứu liên quan tới niềm tin giá trị văn hóa gia đình đều được đánh giá tác động tới kết quả chăm sóc thông qua các biến trung gian như phương thức đối mặt. Một số nghiên cứu có đề cập tới tác động trực tiếp của giá trị văn hóa tới kết quả chăm sóc như gánh nặng chăm sóc, mức độ hạnh phúc tâm lý (psychological well-being) của người chăm sóc tuy nhiên các kết quả nghiên cứu còn nhiều mâu thuẫn.

2.3.3. Các nghiên cứu có liên quan tới tự chủ chăm sóc sử dụng lý thuyết quá trình căng thẳng của Pearlin và cộng sự (1990)

Các nghiên cứu dựa trên cơ sở lý thuyết căng thẳng nhận thức của Lazarus và Forman (1984) chưa đề cập đến tác động trực tiếp của các yếu tố tới tự chủ chăm sóc, nhưng có để cập tới một số các kết quả chăm sóc tích cực như sự tự tin vào năng lực bản thân của người chăm sóc (Sahai và cộng sự, 2018; Huang và cộng sự , 2009, Tan và cộng sự, 2020); chất lượng cuộc sống, sức khỏe, mức độ thành thạo (the mastery) của người chăm sóc (Boele và cộng sự, 2013; Shirai, Silverberg, Kenyon, 2009; Plata, 2006); mức độ hạnh phúc của người chăm sóc (Gates & Akabas, 2012) và bao gồm cả kết quả chăm sóc tiêu cực liên quan tới gánh nặng chăm sóc (Han và cộng sự, 2014).

Thứ nhất, một số nghiên cứu tập trung vào đánh giá tác động của các tác nhân gây căng thẳng chính tới kết quả chăm sóc bao gồm tình trạng sức khỏe của người được chăm sóc, nhu cầu chăm sóc. Chẳng hạn, Sahai và cộng sự (2018) đã thực hiện nghiên cứu về đánh giá giữa trạng thái sức khoẻ của những người mắc bệnh tâm thần phân liệt và gánh nặng và sự tự tin vào năng lực bản thân (self-efficacy) của người chăm sóc. Tự tin vào năng lực bản thân đối với người chăm sóc được định nghĩa như niềm tin của họ về khả năng của chính bản thân có thể hoàn thành tốt công việc chăm sóc. Kết quả nghiên cứu tại Ấn Độ cho thấy khi tình trạng sức khoẻ của người bệnh cải thiện đồng nghĩa với việc tăng sự tự tin vào năng lực bản thân của người chăm sóc.

Tương tự, Huang và cộng sự (2009) cũng cho thấy mối liên hệ giữa tình trạng sức khoẻ người bệnh mất trí nhớ và mức độ tự tin vào năng lực bản thân của người chăm sóc. Với những người già ít gặp phải các vấn đề hành vi tấn công hay ảnh hưởng tới người khác thì sự tự tin vào khả năng chăm sóc của người chăm sóc cũng tốt hơn. Ngoài


ra, nhóm tác giả này còn khẳng định sự tự tin vào năng lực bản thân còn bị ảnh hưởng bởi một số yếu tố khác như trình độ giáo dục của người chăm sóc và thời gian chăm sóc. Trong khi trình độ giáo dục tác động thuận chiều tới sự tự tin của người chăm sóc thì độ dài thời gian chăm sóc lại tác động nghịch chiều. Cũng trong một nghiên cứu tương tự, Tan và cộng sự (2020) tại Malaysia cũng xem xét tác động của tình trạng hôn nhân, tuổi, học vấn của người chăm sóc và thời gian chăm sóc tới mức độ tự tin vào năng lực bản thân của người chăm sóc. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu này không tìm thấy mối liên hệ giữa tình trạng hôn nhân, trình độ giáo dục và độ dài thời gian chăm sóc với sự tự tin của NCS nhưng lại chứng minh được mối liên hệ giữa độ tuổi của người chăm sóc và mức độ tự tin vào việc có thể hoàn thành tốt công việc chăm sóc của họ.

Cũng tập trung vào các tác nhân gây căng thẳng chính nhưng nghiên cứu của Boele và cộng sự (2013) đề cập đến kết quả chăm sóc liên quan tới chất lượng cuộc sống và mức độ thành thạo (the mastery) của người chăm sóc tại gia đình. Trong đó mức độ thành thạo của người chăm sóc có thể được xem như một khía cạnh thể hiện sự tự chủ về hiểu biết của người chăm sóc đối với công việc chăm sóc. Kết quả nghiên cứu này cho thấy mức độ thành thạo tự nhận thấy của người chăm sóc có mối liên hệ với tình trạng sức khoẻ của bệnh nhân. Cụ thể, mức độ rối loạn ngôn ngữ của bệnh nhân càng tăng thì mức độ thành thạo tự nhận thấy của người chăm sóc đối với công việc chăm sóc càng giảm.

Thứ hai, một số ít nghiên cứu tập trung vào nhóm tác nhân gây căng thẳng thứ cấp, ảnh hưởng của nó tới kết quả chăm sóc, tuy nhiên đối tượng nghiên cứu tập trung vào cha mẹ chăm sóc con cái trong gia đình. Điển hình như nghiên cứu của Gates & Akabas (2012) nghiên cứu tác động của xung đột công việc – gia đình và xung đột gia đình – công việc tới mức độ hài lòng hạnh phúc của người chăm sóc (caregiver well- being). Căn cứ vào kết quả nghiên cứu, nhóm tác giả khẳng định công việc có xu hướng xung đột với công việc chăm sóc gia đình nhiều hơn so với tác động của gia đình tới công việc. Hơn nữa, việc giảm thiểu xung đột công việc – gia đình sẽ làm tăng mức độ hài lòng, hạnh phúc của người chăm sóc.

Thứ ba, với một góc nhìn lý thuyết khác, một số tác giả tập trung vào các yếu tố trung gian trong mô hình lý thuyết quá trình căng thẳng của Pearlin và cộng sự (1990). Các yếu tố trung gian được đề cập đến như chiến lược đối mặt (…) hay hỗ trợ xã hội (Han và cộng sự, 2014, Shirai và cộng sự, 2009, Plata, 2006).


Theo Han và cộng sự (2014), nhóm tác giả đã nghiên cứu những loại hỗ trợ xã hội có thể làm giảm gánh nặng tâm lý và phi tâm lý của những người chăm sóc chứng mất trí, và khám phá cơ chế tác động của hỗ trợ xã hội tới gánh nặng chăm sóc. Nghiên cứu đã đánh giá thông qua 731 bệnh nhân sa sút trí tuệ và người thân chăm sóc họ qua năm loại hỗ trợ xã hội (hỗ trợ cảm xúc, hỗ trợ thông tin, hỗ trợ hữu hình, tương tác xã hội tích cực, hỗ trợ tình cảm) qua thang đo. Kết quả cho thấy rằng tương tác xã hội tích cực và hỗ trợ tình cảm trực tiếp và gián tiếp làm giảm gánh nặng tâm lý của NCS. Hỗ trợ hữu hình làm giảm bớt gánh nặng phi tâm lý thông qua cả con đường trực tiếp lẫn gián tiếp. Hỗ trợ thông tin và hỗ trợ tâm lý không có tác dụng giảm bớt gánh nặng tâm lý hay phi tâm lý và hỗ trợ thông tin và hỗ trợ cảm xúc cũng không hữu ích gì lắm trong việc làm giảm gánh nặng cho người chăm sóc hay bất kể loại gánh nặng nào của người chăm sóc.

Một số tác giả nghiên cứu hướng đến tác động của hỗ trợ xã hội tới kết quả chăm sóc tích cực như Shirai và cộng sự (2009), Shirai, Silverberg, và Kenyon (2009), Plata (2006). Nghiên cứu của Shirai và cộng sự (2009) chứng minh mối quan hệ giữa sự hỗ trợ từ gia đình và kết quả chăm sóc tích cực. Xuất phát từ lý thuyết quá trình căng thẳng của Pearlin và cộng sự (1990) và lý thuyết nhận thức xã hội của Bandura, nghiên cứu được tiến hành dựa trên với quy mô là 63 người chăm sóc gia đình tại phía Nam Arizona. Nhóm tác giả đã cho thấy sự hỗ trợ tình cảm xã hội từ những thành viên gia đình là một nguồn lực quan trọng trong cảm giác đạt được của người chăm sóc. Ngoài ra, tác động trực tiếp của hỗ trợ xã hội tới kết quả chăm sóc tích cực xét trên các khía cạnh như sức khoẻ hay chất lượng cuộc sống (life quality) cũng được chứng minh qua các nghiên cứu của Shirai, Silverberg, và Kenyon (2009), Plata (2006).

Cũng dựa trên lý thuyết này nhưng Chen và cộng sự (2015)thì tập trung vào yếu tố trung gian thứ hai xuất phát từ nguồn lực cá nhân, đó là chiến lược đối mặt tập trung vấn đề. Nghiên cứu đánh giá tác động của chiến lược này tới giảm thiểu gánh nặng đối với người chăm sóc. Nghiên cứu này được thực hiện trên 57 người chăm sóc cho bệnh nhân mất trí nhớ. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy sự can thiệp về tâm lý sẽ giúp người chăm sóc tiếp cận chiến lược đối mặt tập trung vấn đề và tìm kiếm sự hỗ trợ xã hội, và chính điều này sẽ giúp giảm thiểu gánh nặng người chăm sóc.

Lý thuyết của Pearlin và cộng sự (1990) đề cập đến khá nhiều yếu tố tham gia vào quá trình căng thẳng, nhưng các nghiên cứu sử dụng lý thuyết này phần lớn tập trung vào tác động của các biến tác nhân gây căng thẳng chính (tình trạng sức khỏe người được chăm sóc, nhu cầu chăm sóc) tới các kết quả chăm sóc cả tích cực và tiêu

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 20/02/2023