Từ năm 2012 đến 2014, lạm phát luôn được duy trì ở mức vừa phải và trung bình vào khoảng 6,50%. Mặc dù mức lạm phát này vẫn được 30oc ho khá cao so với các nước trong khu vực, nhưng nhìn tổng thể thì điều này đã thể hiện những nổ lực rất lớn của Việt Nam trong việc kiểm soát giá cả. Tuy nhiên nếu duy trì lạm phát ở mức thấp trong khi nền kinh tế vẫn chưa hoàn toàn được cải thiện, tổng cầu trong nền kinh tế suy giảm cũng sẽ gây ra những khó khăn nhất định cho nền kinh tế.
3.1.3. Lãi suất thực
Biểu đồ 3.3. Lãi suất thực của Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2014
Lãi suất thực
6,00%
5,40%
4,80%
4,00%
3,60%
2,30%
2,00%
1,40%
0,90%
0,00%
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
-2,00%
-4,00%
-3,60%
-6,00%
-5,60%
-8,00%
(Nguồn: http://data.worldbank.org/indicator)
Tình hình lãi suất thực của Việt Nam qua các năm biến động gắn liền với từng chính sách quản lý nhà nước của Chính phủ. Nhìn chung, lãi suất thực của Việt Nam biến động không đáng kể qua các năm, đặc biệt chỉ riêng năm 2008 và năm 2011, lãi suất thực âm (năm 2008 lãi suất thực là -5,60%; năm 2011 lãi suất thực là
-3,60%). Nguyên nhân lãi suất thực âm có thể giải thích là do sự biến động trong tỷ lệ lạm phát. Trong hai năm này, lạm phát Việt Nam tăng đột ngột (năm 2008 tỷ lệ lạm phát là 23,00%; năm 2011 tỷ lệ lạm phát là 18,70%) đã ảnh hưởng không nhỏ đối với sự phát triển của nền kinh tế. Để kiềm chế sự tăng quá cao từ lạm phát trong hai năm này, Chính phủ đã thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt, từ đó làm cho lãi
suất danh nghĩa tăng cao, tuy nhiên mức tăng trong lãi suất danh nghĩa không bằng mức tăng trong tỷ lệ lạm phát, điều này đã làm cho lãi suất thực trong nền kinh tế thấp dưới mức 0%. Từ năm 2012 đến năm 2014, dưới tác động của hàng loạt chính sách cắt giảm lãi suất danh nghĩa của NHNN, lãi suất thực dần ổn định trở lại và đạt ở mức 4,80% năm 2014.
3.1.4. Tỷ lệ thất nghiệp
Biểu đồ 3.4. Tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2014
Tỷ lệ thất nghiệp
3,00%
2,60%
2,60%
2,50%
2,30%
2,40%
2,40%
2,00%
2,00%
2,00%
1,80%
1,50%
1,00%
0,50%
0,00%
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
(Nguồn: http://data.worldbank.org/indicator)
Từ năm 2007 đến năm 2014, tỷ lệ thất nghiệp không có sự biến động nhiều. Đồ thị biểu diễn tỷ lệ thất nghiệp tương đối bằng phẳng. Trong khoảng thời gian này, tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất đạt 1,80% vào năm 2012 và cao nhất đạt 2,60% vào năm 2009, 2010. Khoảng chênh lệch này không nhiều chỉ vào khoảng 0,8%. Nhìn chung tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam tương đối thấp hơn so với các nước trên thế giới.
3.1.5. Tỷ giá hối đoái
Biểu đồ 3.5. Tỷ giá hối đoái của Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2014
Tỷ giá hối đoái USD/VND
25000
20510
20828
20935
21159
20000
18613
16105
16302
17065
15000
10000
5000
0
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
(Nguồn: http://finance.vietstock.vn/du-lieu-vi-mo)
Trong khoảng thời gian từ năm 2007 đến năm 2014, tỷ giá hối đoái có nhiều sự biến động và có xu hướng tăng qua các năm. Điều này đồng nghĩa với việc VND ngày càng trở nên mất giá. Khoảng thời gian từ năm 2007 đến năm 2009 đánh dấu sự biến động trong các phản ứng chính sách tỷ giá của Việt Nam. Trong năm 2007, do sự gia tăng ồ ạt của dòng tiền đầu tư nước ngoài vào Việt Nam – đây là kết quả của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và điển hình là Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO, nguồn cung ngoại tệ tăng mạnh và vượt quá cầu ngoại tệ nên tỷ giá mua bán USD/VND của các NHTM ở mức rất thấp. Ngoài ra, việc cho vay dưới chuẩn của Mỹ đã ảnh hưởng không nhỏ đến thị trường thế giới và điển hình là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đã xảy ra, ảnh hưởng rất nặng nề đến nền kinh tế thế giới. Đồng USD mất giá mạnh, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ cắt giảm lãi suất USD, vốn đầu tư nước ngoài và kiều hối tăng mạnh, tỷ giá USD/VND trở nên ổn định hơn và việc chênh lệch cao giữa lãi suất USD và VND đã khuyến khích người dân bán USD để gửi VND. Mặt khác, dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, tình hình kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng diễn biến rất phức tạp, chỉ số giá tiêu dùng, lãi suất huy động và cho vay VND tăng cao và có thời điểm lên đến 21%/năm. Đồng thời, NHNN điều chỉnh tỷ giá bình
quân liên ngân hàng liên tục và thường xuyên điều chỉnh mở rộng biên độ dao động của tỷ giá hối đoái. Điển hình là năm 2009, NHNN đã chủ động điều chỉnh biên độ tỷ giá từ ±3% lên ±5% từ ngày 24/03/2009 đồng thời hỗ trợ cung cầu ngoại tệ để góp phần tạo tính thanh khoản cho thị trường và trong khoảng thời gian này, tỷ giá đã gia tăng lên đến 17.065 VND/USD. Bắt đầu từ tháng 06/2009, lãi suất USD sụt giảm đáng kể chỉ còn từ 3,0 - 3,5%/năm, NHNN sử dụng các biện pháp tăng giá niêm yết, giảm biên độ dao động của tỷ giá để tránh tình trạng ngoại tệ căng thẳng. Năm 2010, NHNN đã chủ động điều chỉnh tỷ giá mua bán ngoại tệ của các TCTD tăng lên đến 5,52% và thực hiện nhiều biện pháp ổn định thị trường ngoại hối đồng thời quy định trần lãi suất tiền gửi USD của tổ chức kinh tế chỉ là 1%/năm cũng như chỉ đạo các NHTM hạn chế cho vay nhập khẩu các mặt hàng không thiết yếu. Tín dụng ngoại tệ trong năm 2010 cũng có sự gia tăng đáng kể do việc khuyến khích từ NHNN trong việc đẩy mạnh mở rộng đối tượng cho vay ngoại tệ và đến cuối năm 2010, tỷ giá đã gia tăng lên đến 18.613 VND/USD. Năm 2011, NHNN đã quyết định nâng tỷ giá liên ngân hàng lên 20.693 VND/USD và điều chỉnh giảm biên độ dao động của tỷ giá từ 3% xuống còn 1%. Trong năm 2012, NHNN đã sử dụng rất linh hoạt các biện pháp điều hành chính sách tỷ giá để ổn định thị trường, cụ thể như: can thiệp trực tiếp vào tỷ giá bình quân liên ngân hàng và ấn định ở mức 20.828 VND/USD cho cả năm, thu hẹp và siết chặt hơn các khoản cho vay bằng ngoại tệ theo hướng kiểm soát chặt chẽ đối với các khách hàng không có nguồn thu ngoại tệ từ hoạt động sản xuất kinh doanh để trả nợ vay ngân hàng, …. Các biện pháp này được NHNN thực hiện đồng thời, kết hợp linh hoạt và nhất quán và giữ ổn định tỷ giá và đến cuối năm 2012, tỷ giá hối đoái là 20.828 VND/USD. Năm 2013- 2014, NHNN đề ra mục tiêu duy trì ổn định tỷ giá trong biên độ dao động không quá 2-3% và điều hành chặt chẽ theo tín hiệu thị trường đồng thời thực hiện các biện pháp tăng dự trữ ngoại hối của Nhà nước và chống hiện tượng đô la hóa trong nền kinh tế. Việc giữ ổn định tỷ giá sẽ giúp nền kinh tế tăng trưởng bền vững, kiềm chế lạm phát, thu hút đầu tư nước ngoài và hội nhập kinh tế sâu rộng hơn.
3.2. Thực trạng rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
3.2.1. Tăng trưởng tín dụng
Bảng 3.2. Dư nợ tín dụng bình quân của các NHTM từ năm 2007 đến năm 2014
2007 | 2008 | 2009 | 2010 | 2011 | 2012 | 2013 | 2014 | |
Tổng dư nợ tín dụng bình quân (tỷ đồng) | 22.856 | 26.852 | 38.612 | 51.996 | 61.443 | 69.950 | 79.378 | 93.596 |
Tăng trưởng tín dụng bình quân (%) | 40,80 | 17,50 | 43,80 | 34,70 | 18,20 | 13,80 | 13,50 | 17,90 |
Có thể bạn quan tâm!
- Ảnh hưởng của các yếu tố đặc trưng ngân hàng và kinh tế vĩ mô đến rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam - 3
- Ảnh Hưởng Của Các Yếu Tố Đặc Trưng Ngân Hàng Và Kinh Tế Vĩ Mô Đến Rủi Ro Tín Dụng Tại Các Ngân Hàng Thương Mại
- Thực Trạng Ảnh Hưởng Của Các Yếu Tố Đặc Trưng Ngân Hàng Và Kinh Tế Vĩ Mô Đến Rủi Ro Tín Dụng Tại Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
- Tỷ Lệ Nợ Xấu Của Các Nhtm Việt Nam Và Một Số Quốc Gia
- Ảnh Hưởng Của Các Yếu Tố Kinh Tế Vĩ Mô Đến Rủi Ro Tín Dụng Tại Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam Từ Năm 2007 Đến Năm 2014
- Phương Pháp, Dữ Liệu Và Kết Quả Nghiên Cứu Ảnh Hưởng Của Các Yếu Tố Đặc Trưng Ngân Hàng Và Kinh Tế Vĩ Mô Đến Rủi Ro Tín Dụng Tại Các Ngân
Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.
(Nguồn: BCTC của các NHTM Việt Nam)
Tổng dư nợ tín dụng bình quân của các NHTM Việt Nam có xu hướng biến động trong khoảng thời gian từ năm 2007 đến năm 2014. Năm 2007, Việt Nam gia nhập WTO đã giúp cho nền kinh tế Việt Nam có nhiều khởi sắc cũng như có tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế và đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng. Việc mở cửa thị trường, nền kinh tế tăng trưởng ở mức cao (thể hiện ở tốc độ tăng trưởng GDP thực đạt 8,50%), vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế đã thúc đẩy các NHTM phát triển nhanh hơn theo hướng tiếp cận môi trường công nghệ ngân hàng hiện đại, đa năng, đa tiện ích, an toàn và hiệu quả. Điển hình trong khoảng thời gian này, tốc độ tăng trưởng tín dụng đạt 40,80%, cao nhất trong khoảng thời gian từ năm 2007 đến năm 2014. Trong năm 2007 này, thị trường bất động sản sôi nổi và phát triển, các NHTM tập trung đẩy mạnh cho vay vào lĩnh vực này.
Năm 2008, mục tiêu của Chính phủ Việt Nam trong thời gian này là tập trung mạnh mẽ vào kiềm chế lạm phát, do đó việc chính sách thắt chặt tiền tệ trong khoảng thời gian này được xem là hợp lý nhằm bình ổn nền kinh tế. Tác động từ chính sách tiền tệ thắt chặt này đã làm cho lãi suất trong nền kinh tế tăng cao. NHNN trong khoảng thời gian này đã ban hành nhiều quyết định về điều hành lãi suất như Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN ngày 16/05/2008, Quyết định số 1098/QĐ-NHNN ngày 16/05/2008,…Dưới tác động của các Quyết định này, nhiều
NHTM đã mạnh tay đưa ra những biểu lãi suất tiền gửi cực kỳ hấp dẫn nhằm thu hút lượng tiền nhàn rỗi cũng như giữ chân khách hàng, các NHTM hầu như duy trì mức lãi suất này ở mức từ 17,5%/năm - 18,5%/năm. Tương ứng với mức lãi suất tiền gửi này, lãi suất cho vay cũng tăng lên không kém và đỉnh điểm đạt 21%/năm vào thời điểm từ tháng 06/2008 đến tháng 10/2008. Chính lãi suất cho vay tăng quá cao này đã khiến các doanh nghiệp, cá nhân gặp không ít khó khăn trong vấn đề vay vốn ngân hàng, do đó tốc độ tăng trưởng tín dụng trong năm 2008 này đã sụt giảm đáng kể so với năm 2007 và chỉ đạt 17,50%.
Bám sát mục tiêu của Chính phủ nhằm giúp nền kinh tế Việt Nam phục hồi, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trong năm 2009, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và thận trọng thông qua các giải pháp giảm lãi suất, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, thực hiện nhiều chương trình hỗ trợ lãi suất cho các doanh nghiệp vay vốn, hỗ trợ tín dụng đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng như các vùng kinh tế nông nghiệp, nông thôn,… Trong năm 2009, NHNN đã ban hành các văn bản chỉ đạo liên quan đến chương trình hỗ trợ lãi suất như Thông tư số 02/2009/TT-NHNN ngày 03/02/2009 về việc hỗ trợ cho các tổ chức và cá nhân vay
vốn ngân hàng để sản xuất kinh doanh2 và Thông tư số 05/2009/TT-NHNN ngày
07/04/2009 về việc hỗ trợ cho các tổ chức và cá nhân vay vốn trung dài hạn ngân hàng thực hiện đầu tư mới để phát triển sản xuất kinh doanh3. Các chương trình này đã phần nào khuyến khích hoạt động sản xuất kinh doanh của các cá nhân, tổ chức, qua đó TCTD tài trợ vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh này cũng được tăng trưởng và điển hình là trong năm 2009 tốc độ tăng trưởng tín dụng đã tăng trưởng
trở lại kể từ năm 2008 và đạt mốc 43,80% (Báo cáo thường niên NHNN năm 2009).
Năm 2010, lạm phát có dấu hiệu tăng trở lại, điển hình là tỷ lệ lạm phát trong năm 2010 đạt 9,20% so với 6,90% của năm 2009. Trong năm 2010, NHNN đã điều
2 Cơ chế hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất – kinh doanh: các NHTM, công ty tài chính thực hiện hỗ trợ lãi suất 4%/năm đối với các khoản vay ngắn hạn phát sinh trong khoảng thời gian từ ngày 01/02/2009 đến 31/12/2009, thời gian hỗ trợ tối đa là 08 tháng.
3 Cơ chế hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn trung, dài hạn ngân hàng để thực hiện dự án đầu tư
mới để phát triển sản xuất – kinh doanh: các NHTM, công ty tài chính thực hiện hỗ trợ lãi suất 4%/năm đối với các khoản vay trung, dài hạn phát sinh trong khoảng thời gian từ ngày 01/04/2009 đến 31/12/2009, thời gian hỗ trợ tối đa là 24 tháng.
hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt theo nguyên tắc thị trường, điều hành lãi suất cho vay theo cơ chế thỏa thuận, góp phần ổn định nền kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát. Hoạt động ngân hàng trong khoảng thời gian này cũng khá sôi nổi tuy nhiên tốc độ tăng trưởng tín dụng có phần sụt giảm hơn so với trước và chỉ đạt 34,70%.
Bước sang năm 2011, kinh tế Việt Nam đối mặt với nhiều rủi ro thách thức. Kinh tế thế giới biến động phức tạp dưới tác động của cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu và ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu. Trong nước, lạm phát tăng cao và chạm mốc 18,70%. NHNN đã thực thi chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát, giảm lượng cung tiền, giữ ổn định tăng trưởng kinh tế do đó lãi suất chịu áp lực gia tăng. Chính điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế và điển hình là tốc độ tăng trưởng tín dụng trong hoạt động ngân hàng đã sụt giảm và chỉ đạt 18,20% so với 34,70% của năm 2010.
Năm 2012, kinh tế thế giới vẫn diễn biến rất phức tạp do tác động của khủng hoảng nợ công châu Âu. Trong nước, nền kinh tế Việt Nam vẫn chưa ổn định, NHNN gặp phải nhiều khó khăn khi phải tìm mọi biện pháp nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định nền kinh tế vĩ mô nhưng phải cắt giảm mặt bằng lãi suất nhằm hỗ trợ vốn và tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong khoảng thời gian này, sức cầu của nền kinh tế suy giảm, hoạt động tín dụng ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Doanh nghiệp cũng gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh và triển vọng kinh doanh kém khả quan đã làm khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế suy giảm. Mặt khác, nợ xấu tăng cao đã phần nào gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động ngân hàng. Các NHTM đã thận trọng hơn trong hoạt động cho vay nhằm giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. Điều này đã làm cho tốc độ tăng trưởng tín dụng sụt giảm và chỉ đạt 13,80%.
Năm 2013, 2014, nền kinh tế Việt Nam đã dần ổn định sau những tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, suy thoái kinh tế cũng như khủng hoảng nợ công châu Âu. Trong khoảng thời gian này, hoạt động sản xuất kinh doanh của các cá
nhân, doanh nghiệp thuận lợi hơn, từ đó thúc đẩy hoạt động tín dụng ngân hàng ngày càng phát triển và tăng trưởng tín dụng được duy trì ở mức 17,90% trong năm 2014.
Biểu đồ 3.6. Dư nợ tín dụng bình quân của các NHTM từ năm 2007 đến năm 2014
100.000
Dư nợ tín dụng bình quân và tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng bình quân
93.596
40,80%
43,80%
50,00%
79.378
80.000
34,70%
69.950
40,00%
61.443
60.000
51.996
30,00%
40.000
38.612
17,90%
22.856
17,50%
26.852
18,20% 13,80%
13,50%
20,00%
20.000
10,00%
0
0,00%
2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
Tổng dư nợ tín dụng bình quân (tỷ đồng)
Tăng trưởng tín dụng (%)
(Nguồn: BCTC của các NHTM Việt Nam)
3.2.2. Nợ xấu
Bảng 3.3. Tỷ lệ nợ xấu của các NHTM Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2014
2007 | 2008 | 2009 | 2010 | 2011 | 2012 | 2013 | 2014 | |
Tỷ lệ nợ xấu (%) | 1,50 | 2,20 | 1,80 | 2,10 | 2,80 | 3,40 | 3,60 | 3,30 |
(Nguồn: http://data.worldbank.org/indicator)
Biểu đồ 3.7. Tỷ lệ nợ xấu của các NHTM Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2014
Tỷ lệ nợ xấu
4,00%
3,50%
3,00%
2,50%
2,00%
1,50%
1,00%
0,50%
0,00%
3,40%
3,60%
3,30%
2,80%
2,20%
2,10%
1,80%
1,50%
2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
(Nguồn: http://data.worldbank.org/indicator)