Sử Dụng Công Cụ Quản Trị Rủi Ro Trong Hoạt Động Cho Vay Của Bidv

tạo ra từ phương án vay vốn có đủ khả năng trả nợ được đầy đủ cả gốc lẫn lãi hay không. Vì nguồn tiền tạo ra từ phương án vay vốn chính là nguồn thu nợ thứ nhất đảm bảo cho khả năng thanh toán đầy đủ cả gốc và lãi của khách hàng đối với ngân hàng.

Khi đánh giá phương án kinh doanh của khách hàng cần phải đánh giá đầy đủ trên các mặt sau:

- Đánh gía các yếu tố liên quan ảnh hưởng tới dự án, phương án đầu tư của khách hàng như: các căn cứ pháp lý của dự án, phương án kinh doanh, địa điểm thực hiện dự án, nguồn cung cấp nguyên vật liệu, khả năng đáp ứng về nguồn nhân lực trang thiết bị công nghệ…

- Kiểm tra và phân tích các điều kiện tính toán về hiệu quả của dự án, phương án như: tính hợp lệ, hợp lý của các chi phí trong tổng mức đầu tư; tính khả thi và điều kiện của các nguồn vốn tham gia dự án, tính phù hợp của các khoản doanh thu, lợi nhuận từ dự án mang lại…

- Kiểm tra đánh giá dự án, phương án về hiệu quả kinh tế tài chính và hiệu quả xã hội của dự án, phương án…

Sáu là: tài sản đảm bảo tiền vay

Ngân hàng cần xem xét tài sản đảm bảo tiền vay trên cả phương diện giá trị và sự phù hợp với các qui định của pháp luật về giao dịch tài sản đảm bảo. Tài sản đảm bảo là nguồn thu nợ thứ hau đồng thời nó cũng góp phần nâng cao trách nhiệm của khách hàng trong quá trình sử dụng và hoàn trả vốn vay.

Bảy là: kiểm soát

Ngân hàng cần tập trung vào một số vấn đề như các thay đổi trong qui chế, qui định của nhà nước tác động tới người vay. Khách hàng có đáp ứng được các điều kiện, các yêu cầu của ngân hàng về việc cung cấp vốn hay không.

Để nâng cao chất lượng thẩm định, ngân hàng cần phải dựa trên cơ sở phân loại và đánh giá khách hàng, việc xếp loại khách hàng và xếp hạng tín dụng của khách hàng. Việc thẩm định dựa trên bảng điểm tín dụng của khách hàng có ưu điểm là:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 64 trang tài liệu này.

- Xác định rõ được năng lực và thiện chí của khách hàng thông qua các thông tin lịch sử.

- Tiết kiệm thời gian, chi phí.

An toàn trong hoạt động cho vay vốn của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam - 6

- Các quyết định được đưa ra dựa trên việc phân tích các thông tin lịch sử gắn với các thông tin hiện tại nên khoản vay thường có chất lượng tốt hơn.

- Khả năng kiểm soát cao hơn đối với các khoản vay ngắn hạn.

3.2.1.2. Sử dụng công cụ quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay của BIDV

Theo các chuyên gia kinh tế, bản chất của quản lý cho vay chính là quản lý rủi ro của các khoản cho vay. Để hạn chế rủi ro, trong thời gian tới bên cạnh những công cụ mà các ngân hàng đang thực hiện cần phải được bổ sung những công cụ mới mà hiện nay các ngân hàng trên thế giới đang áp dụng:

a/Chứng khoán hóa các khoản cho vay

Tài sản được chứng khoán hóa thường là những tài sản sinh lời như các khoản cho vay mua nhà thế chấp hoặc cho vay tiêu dùng. Các ngân hàng sẽ bán ra thị trường các chứng khoán được phát hành trên những tài sản đó. Khi các tài sản được thanh toán, tức người đi vay hoàn trả cả vỗn lẫn lãi cho ngân hàng, ngân hàng khi đó sẽ chuyển khoản lãi này cho người sở hữu chứng khoán, còn ngân hàng sẽ giữ lại phần vốn đã bỏ ra.

Đầu tư thông qua hoạt động chứng khoán hóa giúp ngân hàng đa dạng hóa, giảm rủi ro, giảm chi phí đối với việc giám sát các khoản vay. Chứng khoán hóa giúp cho ngân hàng tạo ra các tài sản có tính thanh khoản cao dựa trên những tài sản kém thanh khoản, tạo cho ngân hàng một nguồn vốn mới từ các khoản cho vay của mình.Chứng khoán hóa là công cụ đặc biệt hữu hiệu

cho các ngân hàng trong việc quản lý rủi ro lãi suất. Các ngân hàng có thể dễ dàng thay đổi danh mục đầu tư cho kỳ hạn của tài sản phù hợp hơn với kỳ hạn của các nguồn vốn.

Với những hoạt động giám sát quá trình trả nợ của người vay, thu các khoản thanh toán đến hạn, đảm bảo có đủ tài sản thế chấp nhằm bảo vệ nhà đầu tư chứng khoán, khi đó các ngân hàng có thể thu thêm một khoản lệ phí của những người đi vay và cà những nhà đầu tư. Như vây, chứng khoán hóa các khoản choi vay đồng thời vừa giúp ngân hàng hạn chế được rủi ro trong khi các ngân hàng vẫn thu được một khoản lợi nhuận từ hoạt động này. Do đó, đây là một công cụ mà trong thời gian tới các NHTMNN nên thực hiện

b/ Thư bảo lãnh tín dụng

Được sử dụng để tăng cường chất lượng tín dụng của người vay vốn, giúp ngân hàng tránh khỏi tình trạng mất vốn vay đồng thời giảm chi phí của người đi vay. Một trong những loại hình bảo lãnh tài chính phổ biến nhất trong hệ thống ngân hàng là thư bảo lãnh tín dùng (SLC) bao gồm:

(1) Thư bảo lãnh thực hiện: ngân hàng đảm bảo rằng một công trình hay một dự án sẽ được hoàn thành đúng hạn

(2) Thư bảo lãnh thanh toán: ngân hàng cam kết thanh toán thay

cho khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thanh toán khi đến hạn như đã cam kết trong hợp đồng giữa khách hàng với bên nhận bảo lãnh.

Do những lợi ích của thư bảo lãnh tín dụng mang lại nên các ngân hàng cũng thu được những khoản phí cho việc phát hành bảo lãnh tín dụng:

1. Ngân hàng sẽ nhận được khoản phí cho việc cung cấp dịch vụ bảo lãnh tín dụng thường khoảng 0,5% đến 1% tổng lượng tín dụng thực hiện.

2. Thư bảo lãnh được phát hành với chi phí quản lý tương đối thấp do ngân hàng thường biết rõ về đối tượng khách hàng.


lãnh.

3. Các ngân hàng ít khi bị yêu cầu phải thanh toán cho hợp đồng bão


Hiện nay công cụ bảo lãnh tài chính nói riêng và thư bảo lãnh tín dụng

nói riêng đang trở thành một công cụ quan trọng. Hiện nay ở Việt Nam cũng có nhiều ngân hàng thương mại cổ phần thực hiện công cụ này. Các NHTMNN trong thời gian tới cần phải đẩy mạnh nghiệp vụ trên nhằm đa dạng hóa sản phẩm, giảm thiểu rủi ro của các khoản cho vay.

c/ Các công cụ tài chính phái sinh

Chứng khoán hóa các khoản cho vay, bảo lãnh tài chính tuy đã giúp ngân hàng hạn chế được rủi ro tín dụng của danh mục cho vay nhưng lại không linh hoạt trong trường hợp ngân hàng có nhiều khoản vay với các tính chất khác nhau. Các công cụ tài chính phái sinh xuất hiện sẽ góp phần giảm rủi ro tín dụng và rủi ro lãi suất của ngân hàng.Một trong những công cụ phái sinh phổ biến được sử dụng hiện nay là :

1. Hợp đồng trao đổi tín dụng: Hai ngân hàng trao đổi cho nhau những dòng tiền từ một số bộ phận trong danh mục cho vay của mình, góp phần đa dạng hóa danh mục cho vay.

2. Hợp đồng trao đổi toàn bộ thu nhập: ngân hàng thanh toán cho tổ chức bảo đảm toàn bộ dòng thu nhập có tính ổn định không cao từ các khoản cho vay hay đầu tư của mình để đổi lấy một dòng thu nhập ổn định hơn dựa trên một lãi suất thị trường cơ sở.

3. Hợp đồng quyền tín dụng: ngân hàng trả phí cho việc một tổ chức thực hiện bảo đảm đối với khoản cho vay hay đầu tư trước rủi ro không thể được thanh toán hoặc thực hiện bù đắp cho sự tăng lên chi phí huy động vốn do mức xếp hạng tín dụng của ngân hàng giảm.

Thị trường sản phẩm phái sinh rất có hiệu quả trong việc phân phối lại rủi ro giữa các nhà đầu tư, không có ai cần phải chấp nhận một rủi ro không phù hợp với năng lực của mình. Vì thế mà thị trường sẽ được ung cấp nhiều

vốn hơn, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triển, phát huy khả năng huy động vốn và giảm chi phí sử dụng vốn.

3.2.1.3. Tăng cường các giải pháp xử lý nợ quá hạn

Nợ quá hạn đang là một thực trạng đáng báo động của BIDV do tỷ lệ nợ xấu luôn ở mức cao. Do đó giải pháp cần thiết để đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay của BIDV cần phải thực hiện mà quản lý hiệu quả hoạt động của công ty quản lý nợ (AMC). AMC là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên với phạm vi hoạt động bao gồm:

- Trực tiếp thực hiện các hoạt động mua bán nợ tồn đọng của các tổ chức tín dụng và của các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản khác.

- Tiếp nhận, quản lý các khoản nợ xấu, nợ tồn đọng (bao gồm nợ có tài sản đảm bảo hoặc không có tài sản đảm bảo) và các tài sản đảm bảo nợ vay khác kiên quan đến khoản nợ từ ngân hàng mẹ để xử lý bằng các biện pháp.

Công ty AMC có thể xử lý tài sản của khoản nợ quá hạn bằng cách:

- Bán trực tiếp các tài sản được giao xử lý theo giá thị trường theo các hình thức: bán công khai trên thị trường, bán qua trung tâm đấu giá tài sản và khi có công ty AMC của nhà nước được thành lập (Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng - DATC) thì các tài sản trên có thể bán cho DATC.

- Cho thuê các tài sản mà công ty đang được giao xử lý.

- Góp vốn mua cổ phần các doanh nghiệp khác bằng tài sản thế chấp.

- Đầu tư, cải tạo tài sản để bán hoặc cho thuê.

Bên cạnh đó công ty AMC còn thực hiện những biện pháp để cơ cấu lại nợ như: giãn nợ, miễn lãi, chuyển đổi nợ thành vốn cổ phần…

Thực tế trong vấn đề giải quyết nợ quá hạn vướng mắc chủ yếu chính là những bất cập trong cơ chế, chính sách liên quan đến việc xử lý các tài sản đảm bảo, về tỷ lệ chuyển nợ thành vốn góp, về quy định người đại diện của BIDV khi tham gia cổ phần, trách nhiệm và nghĩa vụ của người đại diện. Tuy nhiên giải pháp trước mắt của BIDV là cần phải tích cực tăng cường việc xử

lý các khoản nợ đọng bằng quỹ dự phòng rủi ro, mặt khác cần tăng cường hiệu quả của việc khai thác cái tài sản thế chấp, dùng các biện pháp mạnh để thu hồi nợ.

Ngoài những giải pháp đã được đưa ra thì còn có giải pháp chứng khoán hóa các khoản nợ . Vậy chứng khoán hóa các khoản nợ là gì? Một cách tổng quát, chứng khoán hóa là hình thức phát hành trái phiếu trên thị trường vốn để thu về tiền mặt và các nhà đầu tư trái phiếu đó sẽ thu về lợi tức từ các quỹ tài sản đã được chứng khoán hóa. Khi thực hiện việc chứng khoán hóa một khoản nợ thì khoản này sẽ được loại ra khỏi bảng cân đối kế toán, từ đó tăng cường chất lượng tài sản có và giảm vốn yêu cầu đối với ngân hàng. Khi đó, các ngân hàng sẽ giải phóng được một số vốn lớn nằm trong quỹ dự phòng rủi ro khi tiến hàng chứng khoán hóa các khoản nợ xấu. Việc này sẽ giúp cho ngân hàng có thêm một nguồn vốn quý giá để thực hiện các khoản cho vay mới.

Ngoài ra, đầu tư thông qua hoạt động chứng khoán hóa giúp ngân hàng đa dạng hóa, giảm rủi ro, giám chi phí đối với hoạt động giám sát các khoản cho vay. Thêm vào đó, chứng khoán hóa sẽ giúp cho ngân hàng gia tăng được lợi nhuận do tái cơ cấu lại khoản cho vay: ngân hàng có thể cho vay theo lãi suất thị trường, sau đó chứng khoán hóa các khoản vay này ở một lãi suất thấp hơn do các khoản vay này đã được đa dạng hóa rủi ro khi nằm trong một trong một tập hợp lớn các khoản vay. Và khi thực hiện chứng khoán hóa các khoản nợ, quan trọng nhất ngân hàng đã có thể chuyển giao phần rủi ro tín dụng do nợ xấu có thể mang lại sang cho các nhà đầu tư chứng khoán.Tuy nhiên, không phải khoản vay nợ nào cũng có thế được chứng khoán hóa, ngân hàng cần phải xem xét khả năng có chứng khoán hóa được hay không. Nếu được chứng khoán hóa thì khoản nợ này sẽ chuyển đổi chủ sỡ hữu.

Khoản nợ được chứng khoán hóa sẽ được chuyển từ ngân hàng sang một công ty quản lý nợ: có thế là công ty độc lập như Công ty Mua bán nợ và

tài sản tồn đọng thuộc Bộ tài chính (DATC) hay chính các công ty AMC của ngân hàng. Các khoản nợ đem ra chứng khoán hóa có tính rủi ro tương đối cao nên thông thường ngân hàng thường phải gộp nhiều khoản nợ lại, trong đó có cả nợ xấu và nợ có chỉ số an toàn tín dụng cao nhằm đưa những khoản nợ này đến được với các nhà đầu tư. Bên cạnh đó còn phải có sự đảm bảo an toàn cho các nhà đầu tư, thông thường là từ sự bảo trợ của Nhà nước, do đó để phương pháp chứng khoán hóa đạt được hiểu quả cao đòi hỏi phải có sự hỗ trợ từ Chính phủ.

Khi các các khoản nợ đã được chứng khoán hóa cần phải phân loại và đánh giá những khoản nợ nào có thể thực hiện được bằng giải pháp này, do đó đòi hòi ngân hàng phải có đội ngũ ngân viên có năng lực và trình độ cao và một hệ thống trang thiết bị ngân hàng tương đối hiện đại. Vì vậy, giải pháp chứng khoán hóa các khoản nợ cần phải thực hiện song song với giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và năng lực công nghệ của ngân hàng.

3.2.2. Nhóm giải pháp mang tính hỗ trợ

3.2.2.1. Đẩy nhanh quá trình hoàn thiện và đổi mới công nghệ ngân hàng

Công nghệ của các NHTM Việt Nam nói chung và BIDV nói riêng vẫn còn lạc hậu so với công nghệ của các ngân hàng các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta đang hội nhập một cách sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới thì việc hoàn thiện và đổi mới công nghệ ngân hàng là yêu cầu cấp bách được đặt ra đối với các ngân hàng. BIDV cũng đã triển khai xong dự án hiện đại hóa ngân hàng giai đoạn II, trong thời gian tới ngân hàng cần tập trung nghiên cứu và khai thác có hiệu quả nhất các tiện ích từ dự án mang lại.

Trong công tác cho vay, hệ thống thông tin cần được cung cấp trực tuyến, các quyết định cho vay cần dựa trên cơ sở những thông tin cập nhật và đánh giá về khách hàng. Do đó, BIDV nên thành lập bộ phận nghiên cứu, phân tích và dự báo kinh tế vĩ mô, bộ phận này sẽ dựa trên tất cả các kênh

thông tin, các nguồn nghiên cứu và dự báo khác để làm định hướng hoạt động cho vay, chiến lược quản lý rủi ro, chiến lược khách hàng và chiến lược đầu tư vốn tín dụng của mình. Bộ phận này sẽ tiến hành phân tích, đánh giá quy mô, cơ cấu và hiệu quả tín dụng của các ngành kinh tế, thành phần kinh tế, địa bàn nông thôn và thành thị để trên cơ sở đó ngân hàng có thể thực hiện các giải pháp mở rộng phương án cho vay an toàn - hiệu quả - bền vững.

3.2.2.2. Nâng cao vai trò của công tác kiểm soát nội bộ ngân hàng

Công tác kiểm soát nội bộ trong hoạt động tín dụng là một công cụ vô cùng quan trọng, thông qua hoạt động kiểm soát có thể phát hiện, ngăn ngừa và chấn chỉnh những sai sót trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng. Bên cạnh đó, hoạt động kiểm soát cũng phát hiện, ngăn chặn những rủi ro đạo đức do cán bộ tín dụng gây ra.

Để nâng cao vai trò của công tác kiểm soát nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay, BIDV cần thực hiện một số biện pháp sau:

- Tăng cường những cán bộ có trình độ, đã qua nghiệp vụ tín dụng để bổ sung cho phòng kiểm soát. Và tiêu chuẩn đối với người làm công tác kiểm toán nội bộ cần phải có là: có phẩm chất trung thực, ý thức chấp hành pháp luật và sự nhìn nhận khách quan; có kiến thức, hiểu biết chung về pháp luật, về quản trị kinh doanh và các nghiệp vụ ngân hàng; có khả năng thu thập, phân tích, đánh giá và tổng hợp thông tin; có kiến thức, kỹ năng về kiểm toán nội bộ; và có kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực ngân hàng tối thiểu là 02 năm.

- Trong quá trình kiểm tra hoạt động tín dụng, có thể tăng cường cán bộ làm trực tiếp từ bộ phận tín dụng hoặc thẩm định và quản lý tín dụng cùng phối hợp kiểm tra.

- Thường xuyên đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ, luật pháp cho cán bộ phòng kiểm soát. Vì hiện nay, có những cán bộ thực hiện kiểm tra mà chưa hề được đào tạo hoặc chưa có kinh nghiệm làm tín dụng. Trong đó, phải

đào tạo đạo đức nghề nghiệp để cán bộ kiểm toán nội bộ trong quá trình tác nghiệp phải thực hiện vô tư, tránh tình trạng cả nể và chưa thực sự góp ý thẳng.

- Cần quy định trách nhiệm đối với cán bộ kiểm soát, có chế độ khuyến khích thưởng phạt để nâng cao tinh thần trách nhiệm trong hoạt động kiểm soát.

- Không ngừng hoàn thiện và đổi mới phương pháp kiểm tra, áp dụng linh hoạt các biện pháp kiểm tra tùy thuộc vào từng thời điểm, từng đối tượng và mục đích của kiểm tra.

- Bên cạnh đó, hệ thống kiểm soát nội bộ cần được thường xuyên tự đánh giá bởi vì việc này sẽ có tác dụng phòng ngừa rủi ro và hỗ trợ đắc lực cho công tác quản lý rủi ro của ngân hàng.

3.2.2.3. Xác định và giải quyết các vấn đề theo BASEL II

BIDV đã thành lập và đưa vào hoạt động Ban quản lý rủi ro và có phòng quản lý rủi ro tín dụng nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động chov ay của ngân hàng nhưng cần phải tiếp tục cải cách để tiến dần theo chuẩn mực quốc tế bao gồm:

- Hệ thống xếp hạng tín dụng: Trong đó cần xác định rõ những đối tượng nào sẽ phải được xếp hạng: xếp hạng khoản vay, xếp hạng khoản vay xấu, xếp hạng sản phẩm, xếp hạng tiêu chuẩn và thực trạng cán bộ tín dụng, xếp hạng khách hàng đối tác. Hệ thống xếp hạng khách hàng là căn cứ để xác định xác suất vỡ nợ cho từng khoản vay.

- Hệ thống quản lý tài sản đảm bảo: Hệ thống sẽ đảm bảo linh hoạt trong việc đánh giá giá trị hiện thời và là căn cứ để xác định xác suất mất vốn do vỡ nợ.

- Hệ thống giới hạn cho vay: Hệ thống này cần giải quyết được hai vấn đề cơ bản đó là khoa học tính toán và vấn đề kiểm soát, hệ thống giới hạn cũng cần phải kiểm soát được các chỉ tiêu giới hạn theo qui định của NHNN.

- Mô hình và phương pháp tính toán: Sẽ xác định được các kết quả cưới cùng trong việc tính toán các chỉ tiêu định lượng cụ thể, ước tính tổn thất, từ đó những biện pháp đối phó và phân bổ rủi ro sẽ được xác định.‌

3.3. Đề xuất kiến nghị

3.3.1. Kiến nghị đối với Chính phủ

3.3.1.1. Hoàn thiện và ổn định các chính sách phát triển kinh tế xã hội

Trong việc hoạch định chính sách, cần cân đối một cách thích hợp giữa các mục tiêu đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, ổn định tiền tệ và sự phát triển bền vững của hệ thống ngân hàng thương mại, tránh tình trạng thắt chặt hoặc thả lỏng quá mức, thay đổi định hướng quá đột ngột gây ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng thương mại. Nhà nước cần đưa ra công bố cụ thể những kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, có như vậy các NHTM mới chuẩn bị trước những biện pháp nhằm quản trị các rủi ro có thể xảy ra, đảm bảo an toàn cho hoạt động của toàn hệ thống.

Bên cạnh đó, nhà nước cần thúc đẩy thị trường tài chính, trước hết là thị trường liên ngân hàng và thị trường tiền tệ nhằm xác định khuôn khổ hoạt động của các ngân hàng, tạo thêm nhiều cơ hội đầu tư nhằm phân tán rủi ro, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và đa dạng hóa các công cụ thanh toán nhằm giảm thiểu rủi ro trong hoạt động ngân hàng.

Hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật như hệ thống thông tin, kiểm toán, kế toán theo chuẩn mực quốc tế…để thúc đẩy nền kinh tế phát triển ổn định, tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và NHTM nói riêng phát triển an toàn, bền vững và hội nhập quốc tế.

3.3.1.2. Tạo lập môi trường pháp lý đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay vốn

Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng là một đòi hỏi cấp bách. Nhà nước phải không ngừng tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh để khuyến khích sản xuất kinh doanh, tạo hành lang pháp lý vững chắc để các thành

phần kinh tế yên tâm bỏ vốn ra đầu tư. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần tiếp tục hoàn thiện, đổi mới môi trường kinh tế, coi đó là giải pháp tổng thể và cơ bản nhất trong quá trình đổi mới mọi lĩnh vực kinh doanh nói chung và lĩnh vực kinh doanh tiền tệ nói riêng, chẳng hạn như:

- Trong việc ban hành và thực hiện các cơ chế chính sách pháp luật cần nắm bắt nhanh và kịp thời mọi sự phát triển của nền kinh tế xã hội, cần phải thu thập ý kiến đầy đủ, khách quan từ các cơ quan ban ngành, doanh nghiệp để đảm bảo việc thực thi được chính xác, hiệu quả, công bằng và phù hợp với điều kiện thực tế.

- Hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp lý liên quan đến đảm bảo tiền vay, làm thế nào để trong trường hợp ngân hàng đã thực hiện đúng các quy định về thế chấp, cầm cố tài sản khi cho vay thì khi xử lý nợ, ngân hàng được toàn quyền trong việc thanh lý tài sản nhận làm đảm bảo đó để thu nợ nhằm khắc phục các khó khăn về quy trình, thủ tục và thời gian xử lý tài sản đảm bảo thu hồi vốn vay như hiện nay.

- Bên cạnh đó, Chính phủ giao Bộ tài chính sớm hoàn thiện, ban hành khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của các công ty xếp hạng tín nhiệm vì hiện tại việc xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của các NHTM còn gặp nhiều khó khăn, các qui định pháp lý chưa thể cho phép các ngân hàng thực hiện khảo sát, đánh giá tình hình các doanh nghiệp trong nước trước khi đưa ra đánh giá xếp hạng tín nhiệm.

3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước

3.3.2.1. Đề xuất mô hình giám sát Ngân hàng nhà nước tại Việt Nam và các biện pháp tăng cường giám sát

Gíam sát có hiệu quả các NHTMNN là nhiệm vụ then chốt để giữ vững sự ổn định - an toàn - hiệu quả - không gặp khủng hoảng của hệ thống các ngân hàng. Theo Uỷ ban BASEL quy trình kiểm tra kiểm soát không chỉ nhằm đảm bảo các ngân hàng có đủ vốn để chống đỡ lại tất cả rủi ro trong

hoạt động kinh doanh mà còn nhằm khuyến khích các ngân hàng phát triển và sử dụng các kỹ thuật quản lý rủi ro tốt hơn. Thanh tra, giám sát hoạt động của hệ thống ngân hàng trở thành một chức năng pháp lý cần thiết của nhà nước nhằm phát hiện kịp thời và xử lý các sai phạm trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, đảm bảo an toàn và ổn định của cả hệ thống. Do vậy việc xây dựng một cơ quan giám sát ngân hàng hoạt động hiệu quả là việc làm cần thiết để đảm bảo an ninh tài chính đối với hoạt động của các TCTD nói chung và các NHTMNN nói riêng. Như vậy chúng ta cần phải trả lời trước hết cho câu hỏi mô hình giám sát ngân hàng nào là phù hợp với bối cảnh của Việt Nam trong thời gian tới?

Mô hình giám sát ngân hàng cần xây dựng

Trước hết cần phải thành lập Uỷ ban Giam sát ngân hàng(GSNH) tách biệt với Hội đồng Chính sách tiền tệ quốc gia nhưng vẫn thuộc sự quản lý trực tiếp của Thống đốc NHNN. Uỷ ban GSNH bao gồm một số thành viên chủ chốt: Thống đốc NHNN đóng vai trò là Chủ tịch Uỷ ban, Tổng thư ký Uỷ ban do Tổng thanh tra ngân hàng kiêm nhiệm, các ủy viên có thể bao gồm một đại diện của Thanh tra Chính phủ, đại diện Bộ tài chính, Uỷ ban Chứng khoán và Bảo hiểm tiền gửi. Bên cạnh Uỷ ban sẽ được hỗ trợ từ sự cố vấn của những chuyên gia giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực giám sát ngân hàng. Có thể xem xét đến việc đưa các chuyên gia cao cấp này vào một trong những vị trí thành viên của Uỷ ban. Thời gian kiêm nhiệm của các thành viên không được quá 2 nhiệm kỳ, mỗi nhiệm kỳ là 5 năm.Uỷ ban do Chủ tịch điều hành, hoạt động với tư cách là ban quản trị đưa ra các chủ trương chính sách, nghị quyết, và quyết định theo đa số, sau đó Tổng thư ký sẽ là người chịu trách nhiệm thực thi.

Uỷ ban GSNH là cơ quan tối cao có quyền và chịu trách nhiệm trong việc: thông qua việc cấp phép, xây dựng kế hoạch và chiến lược phát triển hệ thống các ngân hàng; phê chuẩn các cơ chế, quy định điều tiết, và quyết định các phương án xử lý các ngân hàng có vấn đề nhằm đặt đối tượng vào tình

trạng giám sát đặc biệt để từ đó có những biện pháp can thiệp phù hợp; Uỷ ban GSNH có thể đưa ra những phê chuẩn về việc rút phép, tái cơ cấu lại bộ máy hoạt động của các ngân hàng bằng việc hợp nhất, sát nhập, chia tách, thành lập các công ty con, giải thể... nếu ngân hàng hoạt động không hiệu quả, có khả năng gây nên sự khủng hoảng cho hệ thống tài chính- ngân hàng. Bên cạnh đó, Uỷ ban còn có nhiệm vụ và quyền hạn: (1) Phê chuẩn và cơ cấu tổ chức các đơn vị thuộc Khối GSNH; (2) Phê chuẩn các nguyên tắc hoạt động của Khối cùng mạng lưới chi nhánh.

Trong đó, Khối GSNH được thành lập dưới sự quản trị của Uỷ ban GSNH và sự điều hành trực tiếp của Tổng thư ký Uỷ ban. Khối GSNH sẽ đảm nhận trách nhiệm chuẩn bị các văn kiện, tài liệu, xây dựng các dự thảo cơ chế, quy chế, quyết định... để đệ trình lên Uỷ ban GSNH xem xét phê chuẩn. Tại trụ sở chính của Khối GSNH thành lập các phòng ban riêng biệt với các chức năng, nhiệm vụ rõ ràng: Phòng định chế tập trung vào công tác nghiên cứu, tham mưu hoạch định chính sách, xây dựng các quy chế, chế độ, văn bản điều chỉnh hợp lý; Phòng cấp phép thành lập các ngân hàng với chức năng kiểm tra các yêu cầu tối thiểu đặt ra như: yêu cầu về vốn điều lệ, về vốn pháp định...; Phòng thanh tra giám sát ngân hàng và xử lý các ngân hàng có vấn đề với chức năng tổng hợp báo cáo thanh tra giám sát do các GSNH đưa lên để tìm ra những phương án tối ưu được Chủ tịch Uỷ ban phê chuẩn nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động hệ thống ngân hàng.

Các GSNH khu vực thuộc cơ cấu tổ chức của Khối GSNH với những công cụ kiểm toán nội bộ và độc lập nhằm hỗ trợ cho quá trình giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ, từ đó cảnh báo sớm những rủi ro có thế gây nên khủng hoảng cho hệ thống ngân hàng. Các khu vực được hình thành tùy theo mức độ quy mô các chi nhánh ngân hàng tỉnh, thành phố. Với những thành phố lớn có thể được coi như một khu vực, những tỉnh miền núi phía bắc do quy mô hoạt động còn hạn chế nên có thể chỉ thành lập khu vực Tây Bắc, Đông bắc.

Tương tự như vậy cho các khu vực khác trên cả nước; mặc dù cách sắp xếp hệ thống có khác nhau nhưng Uỷ ban GSNH phải đảm bảo chắc chắn rằng các giám sát viên ở mỗi khu vực phải bao quát được hết hoạt động của các ngân hàng nằm trong khu vực đó. GSNH khu vực chịu sự lãnh đạo và điều hành tập trung, thống nhất của Tổng thư ký Uỷ ban. Quan hệ giữa Chánh thanh tra NH khu vực với giám đốc chi nhánh khu vực là quan hệ đồng cấp. Điều này thật sự cần thiết khi hoạt động Thanh tra giám sát ngân hàng hiện nay vẫn phải chịu tác động của nhiều yếu tố, trong đó có sự lạm dụng chức quyền của các ngân hàng khu vực.

Như vậy để hoạt động giám sát ngân hàng đạt kết quả cao nhất cần thiết phải tiến hành khẩn trương với những phương thức mềm dẻo và linh động phù hợp với xu thế hội nhập của ngành ngân hàng nói riêng và của nền kinh tế Việt Nam nói chung. Bên cạnh đó cần phải thực hiện triệt để những nguyên tắc của kiểm tra theo tiêu chuẩn quốc lệ thì hoạt động giám sát ngân hàng mới đạt được kết quả cao nhất .( Phụ lục)

Những nguyên tắc chính của kiểm tra kiểm soát theo tiêu chuẩn BASEL II

Nguyên tắc 1: Ngân hàng nên có quy trình đánh giá tổng quan mức độ an toàn vốn trong mối liên hệ với các đặc điểm về rủi ro của ngân hàng và có một chiến lược để duy trì vốn. Năm thuộc tính chính của một quy trình chặt chẽ là:

Giám sát của hội đồng quản trị và ban điều hành;

Ước tính mức vốn hợp lý;

Đánh giá toàn diện các rủi ro;

Giám sát và báo cáo;

Xem xét đánh giá hoạt động kiểm tra kiểm soát nội bộ.

Nguyên tắc 2: GSNH khu vực cần kiểm tra và đánh giá các chiến lược và công tác đánh giá mức an toàn vốn nội bộ của ngân hàng, cũng như khả

năng của các ngân hàng trong việc giám sát và đảm bảo sự tuân thủ các quy định về các tỷ lệ vốn và cần phải có những động thái xử lý phù hợp nếu họ không hài lòng với kết quả của quy trình đánh giá.

Các cơ quan giám sát cần phải thường xuyên kiểm tra quy trình các ngân hàng sử dụng để đánh giá mức an toàn vốn, trạng thái rủi ro của ngân hàng, các mức vốn và chất lượng vốn nắm giữ tương ứng. Khi tiến hành kiểm tra, cơ quan chủ quản cần chú trọng kiểm tra chất lượng của hoạt động quản lý và giám sát rủi ro của ngân hàng chứ không nên thực hiện các chức năng giám sát như của người quản lý ngân hàng.

Nguyên tắc 3: Các cơ quan thanh tra giám sát nên yêu cầu các ngân hàng duy trì các chỉ số an toàn vốn ở mức cao hơn các tỷ lệ vốn điều chỉnh tối thiểu và phải có khả năng yêu cầu các ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn mức tối thiểu

Nguyên tắc 4: Các cơ quan giám sát cần phải có biện pháp can thiệp ngay ở giai đoạn đầu tiên để ngăn không cho mức vốn bị rớt xuống thấp hơn mức tối thiểu để giải quyết những thuộc tính rủi ro của một ngân hàng nhất định. Khi đó Uỷ ban GSNH cần phải tăng cường giám sát, yêu cầu ngân hàng xây dựng và triển khai kế hoạch khôi phục mức an toàn vốn đạt yêu cầu cần thiết.

3.3.2.2. Nâng cao chất lượng của Trung tâm thông tin tín dụng (CIC)

Một trong những bộ phận được NHTM sử dụng là Trung tâm thông tin tín dụng (mạng CIC). Và một trong những điều kiện cần thiết để thực hiệnquản trị rủi ro tốt là hệ thống thông tin phải đầy đủ, cập nhật, chính xác. Chất lượng thông tin càng cao thì rủi ro trong kinh doanh tín dụng của các Tổ chức Tín dụng càng giảm. Vì vậy, việc hoàn thiện hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng là rất cần thiết chẳng hạn như là: thông tin tín dụng phải bao hàm tất cả các thông tin về tình hình vay vốn của khách hàng tại các Tổ chức Tín dụng, phải có sự phân tích thông tin tổng hợp về khách hàng để lưu

Xem tất cả 64 trang.

Ngày đăng: 16/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí